Nhà thơ sinh ngày 4 tháng 11 năm 1985, năm Ất Mùi. Năm 26 tuổi,1921 ấn hành thi tập đầu tay: Duyên Nợ Phù Sinh. Năm 1927, thêm tập thứ hai: Bút Quan Hoài, bị Pháp cấm lưu hành. Bài thơ nổi tiếng nhât: “Hai Chữ Nước Nhà”. Ông Nguyễn Phi Khanh bị giặc Minh bắt đưa về Yên Kinh, Nguyễn Trãi theo cha đến Ải Nam Quan thác lời ông Nguyễn Phi Khanh bảo con phải về lo rửa hận cho nước. Nhà thơ từ trần tại Sàigon ngày 7 tháng 3, 1983, thọ 92 tuổi.
Chốn Ải Bắc mây sầu ảm đạm Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu Bốn bề hổ thét chim kêu Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước Chút thân tàn lần bước dậm khơi Trông con tầm tã châu rơi Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên:
Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay Trời Nam riêng một cõi này Anh hùng, hiệp nữ xưa nay kém gì!
Than vận nước gặp khi biến đổi Để quân Minh thừa hội xâm lăng Bốn phương khói lửa bừng bừng Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ Chốn dân gian bỏ vợ lìa con Làm cho xiêu tán hao mòn Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!
Thảm vong quốc kể sao cho xiết Trông cơ đồ nhường xé tâm can Ngậm ngùi đất khóc giời than Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Khói Nùng lĩnh như xây khối uất Sóng Long giang nhường vật cơn sầu Con ơi! càng nói càng đau ... Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?
Cha xót phận tuổi già sức yếu Lỡ sa cơ đành chịu bó tay Thân lươn bao quản vũng lầy Giang sơn gánh vác sau này cậy con
Con nên nhớ tổ tông khi trước Đã từng phen vì nước gian lao Bắc Nam bờ cõi phân mao Ngọn cờ độc lập máu đào còn dây
Kìa Trưng nữ ra tay buồm lái Phận liễu bồ xoay với cuồng phong Giết giặc nước, trả thù chồng Nghìn thu tiếng nữ anh hùng còn ghi
Kìa Hưng Đạo gặp khi quốc biến Vì giống nòi quyết chiến bao phen
Sông Bạch Đằng phá quân Nguyên Gươm reo chính khí nước rền dư uy
Coi lịch sử gươm kia còn tỏ Mở dư đồ đất nọ chưa tan Giang san này vẫn giang san Mà nay sẻ nghé tan đàn vì ai?
Con nay cũng một người trong nước Phải nhắc câu Gia, Quốc đôi đường Làm trai hồ thỉ bốn phương Sao cho khỏi thẹn với gương Lạc Hồng
Thời thế có anh hùng là thế Chữ vinh hoa xá kể làm chi! Mấy trang hào kiệt xưa kia Hy sinh thân thế cũng vì nước non
Con đương độ đầu xanh tuổi trẻ Bước cạnh tranh há dễ nhường ai? Phải nên thương lấy giống nòi Đừng tham phú quí mà nguôi tấc lòng
Kiếp luồn cúi, đỉnh chung cũng nhục; Thân tự do chiêu chúc mà vinh Con ơi nhớ đức sinh thành Sao cho khỏi để ô danh với đời
Chớ lần lữa theo loài nô lệ Bán tổ tiên kiếm kế sinh nhai Đem thân đầy đọa tôi đòi Nhục nhằn bêu riếu muôn đời hay chi?
Sống như thế, sống đê, sống mạt Sống làm chi thêm chật non sông! Thà rằng chết quách cho xong Cái thân cẩu trệ ai mong có mình!
Huống con cũng học hành khôn biết Làm giống người phải xét nông sâu Tuồng chi gục mặt cúi đầu Cam tâm làm kiếp ngựa trâu cho đành!
Nỗi tâm sự đinh ninh dường ấy Cha khuyên con có bấy nhiêu lời Con ơi! con phải là người Thì con theo lấy những lời cha khuyên
Cha nay đã muôn nghìn bi thảm Nói bao nhiêu tâm khảm càng đau! Chân mây mặt cỏ rầu rầu Càng trông cố quốc mạch sầu càng thương!
Lời cha dặn khắc xương để dạ Mấy gian lao con chớ sai nguyền Tuốt gươm thề với vương thiên Phải đem tâm huyết mà đền cao sâu
Gan tráng sĩ vững sau như trước Chí nam nhi lấy nước làm nhà Tấm thân xẻ với san hà Tượng đồng bia đá họa là cam công
Nữa mai mốt giết xong thù nghịch Mũi long tuyền lau sạch máu tanh Làm cho đất rộng trời kinh Bấy giờ quốc hiển gia vinh có ngày!
Nghĩa vụ đó con hay chăng tá ? Tính toán sao vẹn cả đôi đường Cha dù đất lạ gởi xương Trông về cố quốc khỏi thương hồn già
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.