Các Nhà Thơ Hoa Kỳ: Về Một Thời Việt Nam

20/05/202200:00:00(Xem: 1914)
z-01-x-Gerald-McCarthy-POET

Gerald McCarthy và bìa thi tập War Story


Tên anh trên tường đá
theo nắng mưa đã mờ
mỗi năm rừng thay lá
phả gió lạnh dòng thơ. (PTH)

Chúng ta đang bước qua những ngày tháng tư của năm 2022, như thế là tròn 47 năm, tính kể từ tháng 4/1975 -- một dấu mốc lịch sử lớn, đối với cả dân tộc Việt Nam. Đối với các chiến binh Hoa Kỳ từng tham chiến ở Việt Nam, cuộc chiến đó chỉ còn ký ức. Nơi đây, chúng ta đọc lại một số bài thơ về cuộc chiến Việt Nam của cựu chiến binh Hoa Kỳ và các nhà thơ cùng thế hệ của họ. Các bản dịch trong bài là của Phan Tấn Hải.

.

GERALD MCCARTHY

 

Gerald McCarthy vào Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ năm 17 tuổi, phục vụ tại Việt Nam trong hai năm 1966-1967, trong Tiểu Đoàn 1 Công Binh Chiến Đấu Hoa Kỳ (1st Combat Engineer Battalion) tại Chu Lai và rồi tại Đà Nẵng. Sau một nhiệm kỳ trong quân ngũ, McCarthy đào ngũ, bị bắt vào một nhà tù dân sự rồi chuyển vào quân lao. Những bài thơ đầu tiên của ông gom lại ấn hành trong thi tập War Story, ghi lại các suy nghĩ với kinh nghiệm tại Việt Nam. Sau đó, ông tham gia các hoạt động phản chiến và in nhiều thi tập khác. Sau đây là trích đoạn từ bài thơ nhan đề “The Sound of Guns” (Tiếng Súng) trong thi tập War Story, ghi hình ảnh nhà thơ về đời thường nhưng dòng thơ vẫn bị ám ảnh về cuộc chiến:

.

Nơi trường đại học trong thị trấn
những người đàn ông mím môi bảo tôi rằng cuộc chiến ở Việt Nam qua rồi
rằng các bài thơ của tôi nên viết đề tài khác
.
Năm 19 tuổi, tôi đứng trong đêm và nhìn
một sân bay bị pháo kích. Một phi cơ để chở tôi
về quê nhà, bốc cháy; nhiều người chạy băng qua lửa
.
Bảy mùa đông đã trôi qua rồi
chiến tranh vẫn còn theo tôi.
Sẽ không bao giờ tìm được cách nào
để tôi ném những người chết đi.

----- Gerald McCarthy

.

D.F. BROWN

 

z-02-y-D-F-Brown_war-poet
Nhà thơ D.F. Brown trong quân phục

 

Nhà thơ D.F. Brown sinh năm 1948 tại Springfield, Missouri. Ông phục vụ trong Lục quân Hoa Kỳ từ 1968 tới 1977, trong đó từng  giữ nhiệm vụ lính cứu thương trong tiểu đoàn Bravo, 1/14th Infantry tại chiến trường Việt Nam các năm 1969–70. Năm 1984, Brown in tập thơ đầu tay, nhan đề Returning Fire, trong đó, bài thơ ngắn nhất có nhan đề ghi bằng tiếng Pháp “L’Eclatante Victoire de Khe Sanh” (Chiến Thắng Huy Hoàng tại Khe Sanh). Bài thơ hai đoạn, có dòng chỉ 2 chữ. Kể về chiến trường Khe Sanh ở Miền Trung Việt Nam, nơi cây rừng tương lai rồi sẽ mọc phủ lấp các chiến hào hai bên, nơi các chiến hào như các vếr sẹo được liền da lại. Bài thơ như sau.
.

Chiến Thắng Huy Hoàng tại Khe Sanh

Điều chính
để nhớ
là rừng già
đang tái chiếm các chiến hào ----
.
hãy nghĩ nó được tha thứ
hãy nhìn nó hàn gắn
như một vết sẹo.

----- D.F. Brown

 

.

HERBERT KROHN

 

z 03 y Winning hearts and minds book of poems
Bìa tuyển tập Winning Hearts and Minds (NXB First Casualty Press), 1972

.

Tuyển tập Winning Hearts and Minds (NXB First Casualty Press) xuất bản năm 1972 gồm 109 bài thơ của 33 cựu chiến binh Mỹ tại chiến trường Việt Nam. Chúng ta có thể hình dung ra bối cảnh: năm 1972 là năm của Việt Nam hóa chiến tranh, và là năm của nhiều trận đánh dữ dội được gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, và các nhà thơ cựu chiến binh Mỹ từ Hoa Kỳ nhìn về Việt Nam để ấn hành thi tập này. Trong tuyển tập có tham dự của nhà thơ Herbert Krohn, một bác sĩ Quân Y Hoa Kỳ, với bài thơ nhan đề “Farmer’s Song at Can Tho” (Ca khúc của nông dân tại Cần Thơ), với những dòng rất hòa bình như sau:

.

Ca khúc của nông dân tại Cần Thơ

Chỉ là một nông dân
ruột và tim cất tiếng hát
trồng lúa vào vụ mùa
rồi quỳ lạy dòng sông.
Tôi là một nông dân và tôi biết những gì tôi biết
Mùa gặt tháng này là lúa xanh cao
Mùa gặt tháng tới là những đàn bọ rất đói
Làm sao có hòa bình được nơi đất nước xanh tươi này?

----- Herbert Krohn.

.

 

WARREN WOESSNER

 

z-04-y-Warren-Woessner-Poets
Warren Woessner nhiều năm sau cuộc chiến

 

Warren Woessner là một nhà thơ và là một luật sư ở Minneapolis, Minnesota. Sinh năm 1944, ông thuộc thế hệ có rất nhiều bạn hữu tham dự cuộc chiến tại Việt Nam. Ông có bằng Tiến sĩ Luật và bằng Tiến sĩ Hóa Học từ University of Wisconsin-Madison. Là tác giả nhiều tập thơ. Bài thơ sau ông viết vào tháng 4/1971, khi nghe tin chiến cuộc tại VN lan sang Lào.

.

Trên Bầu Trời Xứ Lào

Mặt trận thứ nhì đang quét
tới chúng tôi. Một trận bão hè khác
chúng tôi nghe thấy. Không khí dầy đặc.
Trên mặt đất, ánh đèn bật sáng
như các đôi mắt kinh hoảng. Ngọn gió
trườn bụng xuyên qua lá cỏ.
Từ phía tây, còi báo động cháy tới gần
Những người vợ cầm radio xuống hầm nhà.

----- Warren Woessner

JIM OLSON

 

z 05 Nui Ba Din_Jim Olson
Hình ảnh kèm bài thơ Jim Olson: Núi Bà Đen nhìn từ chiến hào.

 

Nhà thơ Jim Olson có mặt ở Việt Nam các năm 1969 – 1970, chức vụ Phó Tuyên Úy trong Tiểu Đoàn Công Binh 588, Trung Đoàn Công Binh 65, Sư Đoàn 25 Bộ Binh. Nơi đóng quân chính của Jim Olson là Củ Chi, nhưng bài thơ sau là viết về Núi Bà Đen, Tây Ninh. Nhan đề bài thơ là “Nui Ba Din” thực ra là cách đọc sai của tên gọi “Núi Bà Đen.” Nhưng thi sĩ hiểu đúng nghĩa Núi Bà Đen, vì Olson dịch qua tiếng Anh chính xác như thế. Bản dịch sẽ giữ nguyên cách viết sai chính tả.

 

NUI BA DIN

Ngọn núi Đức Mẹ Đồng Trinh Da Đen
nơi phía đông Tây Ninh
Trạm viễn thông Mỹ nằm nơi đỉnh núi
các căn cứ yểm trợ hỏa lực nằm quanh chân núi
Việt Cộng kiểm soát phần giữa núi
Vào đêm, họ rời núi để bắn phá
.
Hôm sau, chúng ta sẽ dội bom Nui Ba Din
Bao trùm một đám mây khói
Việt Cộng dùng đường hầm
chui vào nơi an toàn của núi
Đêm đó họ tái xuất hiện để gây hỗn loạn.
.
Nui Ba Din hiển lộ được cuộc chiến
Chúng ta có viễn thông điện tử tốt hơn
Chúng ta có hỏa lực mạnh hơn
Họ ở nơi cánh đồng nhà.
.
Họ có quyết tâm và kiên nhẫn hơn
Chúng ta có ngọn và chân núi
nhưng họ có giữa núi
Và chúng ta không cách gì bứng họ ra.

----- Jim Olson

Riêng với những người Việt Nam, một thời trải qua cuộc chiến, làm thế nào có thể quên những trận mưa bom trong ký ức? Đất nước đã trải qua nhiều cuộc chiến. Nơi các chiến hào đã mọc lên những rừng cây lá mới. Núi Bà Đen, nơi một bài thơ trong bài từng ghi về một thời chiến tranh khói lửa, bây giờ là nơi có Tượng  Phật Bà bằng đồng cao nhất Châu Á được tạc trên đỉnh núi, cao 72m và được đúc từ 170 tấn đồng đỏ. Nơi người ta một thời cầm súng, bây giờ là cầm kinh điển, hương đèn. Các trang sách cũ đang khép lại. Và những trang sách mới đang mở ra. Thế hệ những người tham dự Cuộc Chiến Việt Nam đang từ từ ra đi.

Các trận mưa bom thế kỷ trước, bây giờ là những dòng chữ lặng lẽ nằm trên trang sử, nơi đó nhân loại sẽ học để biết cách yêu thương nhau, tôn trọng nhau cho một kỷ nguyên mới.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mắt tháng Tư không còn hạt lệ. Mắt tháng Tư chiêu niệm màu cờ. Mắt tháng Tư chập chờn bia mộ hồn tử sĩ từ cổ kim thao thức. / Mắt tháng Tư rưng màu huyết phượng. Mắt tháng Tư ngào cơn huyết biển. Thân giạt cỏ bồng hồn khua nước bao lâu rồi thủy mộ. / Trái tim người đi rơi dần từng mảnh, buồng ngực khô nhớ gió phương nam máu đỗ quyên khắc khoải quê nhà. / Mắt tháng Tư nở bông hoa trên cành hy vọng mỗi đóa hoa như một giọt nước mắt hồng rơi xuống trái tim tôi. / Mắt tháng Tư dẫu ngàn năm vô tự, mảnh lao đao lịch sử. Lật từng chương… / Giấy mực đời chép ra, ví thiếu. / Lấy da này viết để tạ nhau…
tháng tư đưa tay nhặt / vỡ nát của ngày xưa / còn đây, chồng sách cũ / những quả chín trái mùa / còn đây, chiều gió nổi / những ngôi mộ rạp mình / bia gỗ nào run rẩy / hồn linh nào tủi thân / chiến trường lâu đã nguội / hơi sắt và hơi đồng / mấy chục mùa hoa rụng / hư không tìm hư không
Cõi thơ Viên Linh là cõi nhân sinh đầy hệ lụy của định mệnh. Định mệnh của một dân tộc điêu linh, lưu lạc. Định mệnh của con người bé nhỏ và yếu ớt trong dòng chảy cuồng lưu của kiếp sống. Định mệnh của tình yêu mệt mỏi, chán chường và bất trắc. Thơ Viên Linh là một biểu hiệu cho Con Người như là một hữu-thể-tại-thế với tất cả những khổ đau và hoan lạc. Ông vừa tạ thế hôm cuối tháng Ba vừa rồi, Việt Báo trân trọng đăng lại một số ít thơ của ông như một nén tâm hương gửi đến người Thi Sĩ quá cố.
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ là một vị học giả uyên bác về Phật giáo, nguyên giáo sư của Đại học Vạn Hạnh tại Sài Gòn, nhà văn, nhà thơ, dịch giả và là một người bất đồng chính kiến với nhà cầm quyền và đã bị cầm tù trong nhiều năm. Năm 1998, Hòa Thượng được tổ chức Human Rights Watch tặng giải thưởng về nhân quyền Hellmann-Hamett Awards. Hòa Thượng là Xử lý Thường Vụ Viện Tăng Thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất. Hòa Thượng thông thạo tiếng Trung Quốc, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Pali, tiếng Phạn và tiếng Nhật, đọc hiểu tiếng Đức. Hòa Thượng được giới học giả Việt Nam đánh giá cao vì đã công bố nhiều tiểu luận, chuyên khảo, thơ và nhiều công trình dịch thuật Phật giáo từ tiếng Phạn, tiếng Trung Hoa và tiếng Nhật, được coi là nhà sư uyên bác nhất của Phật giáo Việt Nam, đã soạn thảo quyển Bách Khoa Phật Học Đại Tự Điển.
Đó là tựa đề một bài viết của nhà thơ Phan Tấn Hải, và đây là kết của bài: “Chữ nghĩa không vô ích. Chúng ta trong cõi này hãy rủ nhau làm thơ, đọc thơ, ngâm thơ, in thơ, hát thơ… Nếu chúng ta không đủ sức nương vào thơ để ngộ nhập tri kiến Phật, và nếu chúng ta cũng không có đủ sức mạnh của hát thơ để chữa sản nạn như thời Vua Hùng Vương, ít nhất thơ cũng giúp chúng ta giảm được những đau đớn của trần gian này, kể cả khi buộc phải nghe tới bốn dòng thơ ly biệt tương tự của Cha Rồng và Mẹ Tiên thời lập quốc dân tộc Việt Nam (Ta là giống Rồng / Mình là giống Tiên / Thủy thổ khắc nhau / Không ở cùng được.) Nàng thơ ơi, hãy cứu lấy trần gian này. Hãy biến tất cả những trận mưa bom trên trần gian này thành các trận mưa thơ…” (Phan Tấn Hải, Thơ sẽ chữa lành thế giới
Ta về một cõi tâm không / Vẫn nghe quá khứ ngập trong nắng tàn / Còn yêu một thuở đi hoang / Thu trong đáy mắt sao ngàn nửa khuya / Ta đi dẫm nắng bên đèo / Nghe đau hồn cỏ rủ theo bóng chiều / Nguyên sơ là dáng yêu kiều / Bỗng đâu đảo lộn tịch liêu bến bờ / Còn đây góc núi trơ vơ / Nghìn năm ta mãi đứng chờ đỉnh cao
Nhà văn Jon Fosse vừa đoạt giải Nobel Văn chương về kịch nghệ năm nay, 2023. Ngoài ra, ông cũng nổi tiếng trong lãnh vực thơ và truyện. Tác phẩm của ông được dịch ra khoảng 50 ngôn ngữ. Tìm hiểu về mục đích sáng tác, ông cho biết, “I hope they can find a kind of peace in, or from, my writing.” (Tôi hy vọng người đọc có thể tìm thấy sự bình an trong các tác phẩm của tôi.) Tác phẩm nổi tiếng với nội dung sâu đậm của ông là dãy “Septology”. Đây là một từ vựng mới, có ý nghĩa là một loạt bảy cuốn sách. Có lẽ, Septology phát xuất từ “Heptalogy” mà ví dụ rõ rệt nhất là dãy tác phẩm Harry Potter.
Mùa thứ ba trong năm đã chớm về. Autumn ngoài nghĩa mùa thu, còn mang nghĩa ẩn dụ là chỉ lúc xế chiều, lúc ngày sắp tàn, là mùa mà ban ngày ngắn và dần lạnh hơn. Bên cạnh hình ảnh biểu tượng là mùa lá rụng, lại cũng là mùa phần lớn trái cây được thu hoạch, vì gắn với đời sống thiên nhiên này mà từ rất lâu văn hóa Tây phương đã nhân cách hóa mùa thu là người phụ nữ trẻ đẹp đầy sức sống với mái tóc gắn đầy lá hoa quả chín, là hình ảnh vừa nên thơ vừa chứa đựng sức sống diệu kỳ của mùa gặt hái.
Nhà phê bình văn học Trung Quốc đời nhà Thanh, Viên Mai, có nói, “Làm người không nên có cái tôi, nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi”. Thi hào Tagore cho rằng, “Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ảnh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong”. Cả hai nhận định này đều đề cao cái Tôi-làm-Thơ, và cách biểu hiện những thuộc tính về Tôi ấy như thế nào trên ngôn từ thơ. Có hai yếu tố không ai phủ nhận được là cảm xúc và sáng tạo, chính hai yếu tố này định hình phong cách của nhà thơ. Cảm xúc thực được chuyển tải qua thi ngữ, thi ảnh mới mẻ, cá biệt, thì thơ càng có sắc thái nổi bật để lại dấu ấn riêng trong lòng người đọc, dường như không quá để nói rằng điều này định đoạt sinh mệnh một bài thơ. Thơ chỉ thực sự sống khi nó phản ảnh được bản ngã độc đáo của nhà thơ.
Tháng 7. Mùa hè đang gửi đến đây một sứ giả vô cùng dễ thương. Phượng tím. Đi đâu chợt cũng bị màu tím thơ mộng ấy níu mắt nhìn, làm dịu đi cái nóng chói chan. Bạn đang ở đâu, buổi sáng rực nắng đi chơi hay chiều mệt nhoài sau giờ làm việc, hay tối, hay khuya, hàn huyên bạn thiết, hoặc giả nói chuyện một mình, tất cả những tâm trạng thời gian đó, bạn sẽ tìm thấy được trong Căn phòng chứa đựng mọi khoảnh khắc, nơi các nhà thơ Hoàng Trúc Ly, Duy Thanh, Nguyễn Thùy Song Thanh, Tomas Transtromer, Âu Thị Phục An, Chiêu Anh Nguyễn, Nguyễn thị Khánh Minh, Trương Đình Phượng, Inrasara, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Xuân Thiệp, đọc cho bạn nghe những vần thơ mang âm hưởng chói chan của mặt trời mùa hạ, hoang mạc gai xương rồng, mật ngọt của thiên nhiên…
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.