Các Nhà Thơ Hoa Kỳ: Về Một Thời Việt Nam

20/05/202200:00:00(Xem: 1908)
z-01-x-Gerald-McCarthy-POET

Gerald McCarthy và bìa thi tập War Story


Tên anh trên tường đá
theo nắng mưa đã mờ
mỗi năm rừng thay lá
phả gió lạnh dòng thơ. (PTH)

Chúng ta đang bước qua những ngày tháng tư của năm 2022, như thế là tròn 47 năm, tính kể từ tháng 4/1975 -- một dấu mốc lịch sử lớn, đối với cả dân tộc Việt Nam. Đối với các chiến binh Hoa Kỳ từng tham chiến ở Việt Nam, cuộc chiến đó chỉ còn ký ức. Nơi đây, chúng ta đọc lại một số bài thơ về cuộc chiến Việt Nam của cựu chiến binh Hoa Kỳ và các nhà thơ cùng thế hệ của họ. Các bản dịch trong bài là của Phan Tấn Hải.

.

GERALD MCCARTHY

 

Gerald McCarthy vào Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ năm 17 tuổi, phục vụ tại Việt Nam trong hai năm 1966-1967, trong Tiểu Đoàn 1 Công Binh Chiến Đấu Hoa Kỳ (1st Combat Engineer Battalion) tại Chu Lai và rồi tại Đà Nẵng. Sau một nhiệm kỳ trong quân ngũ, McCarthy đào ngũ, bị bắt vào một nhà tù dân sự rồi chuyển vào quân lao. Những bài thơ đầu tiên của ông gom lại ấn hành trong thi tập War Story, ghi lại các suy nghĩ với kinh nghiệm tại Việt Nam. Sau đó, ông tham gia các hoạt động phản chiến và in nhiều thi tập khác. Sau đây là trích đoạn từ bài thơ nhan đề “The Sound of Guns” (Tiếng Súng) trong thi tập War Story, ghi hình ảnh nhà thơ về đời thường nhưng dòng thơ vẫn bị ám ảnh về cuộc chiến:

.

Nơi trường đại học trong thị trấn
những người đàn ông mím môi bảo tôi rằng cuộc chiến ở Việt Nam qua rồi
rằng các bài thơ của tôi nên viết đề tài khác
.
Năm 19 tuổi, tôi đứng trong đêm và nhìn
một sân bay bị pháo kích. Một phi cơ để chở tôi
về quê nhà, bốc cháy; nhiều người chạy băng qua lửa
.
Bảy mùa đông đã trôi qua rồi
chiến tranh vẫn còn theo tôi.
Sẽ không bao giờ tìm được cách nào
để tôi ném những người chết đi.

----- Gerald McCarthy

.

D.F. BROWN

 

z-02-y-D-F-Brown_war-poet
Nhà thơ D.F. Brown trong quân phục

 

Nhà thơ D.F. Brown sinh năm 1948 tại Springfield, Missouri. Ông phục vụ trong Lục quân Hoa Kỳ từ 1968 tới 1977, trong đó từng  giữ nhiệm vụ lính cứu thương trong tiểu đoàn Bravo, 1/14th Infantry tại chiến trường Việt Nam các năm 1969–70. Năm 1984, Brown in tập thơ đầu tay, nhan đề Returning Fire, trong đó, bài thơ ngắn nhất có nhan đề ghi bằng tiếng Pháp “L’Eclatante Victoire de Khe Sanh” (Chiến Thắng Huy Hoàng tại Khe Sanh). Bài thơ hai đoạn, có dòng chỉ 2 chữ. Kể về chiến trường Khe Sanh ở Miền Trung Việt Nam, nơi cây rừng tương lai rồi sẽ mọc phủ lấp các chiến hào hai bên, nơi các chiến hào như các vếr sẹo được liền da lại. Bài thơ như sau.
.

Chiến Thắng Huy Hoàng tại Khe Sanh

Điều chính
để nhớ
là rừng già
đang tái chiếm các chiến hào ----
.
hãy nghĩ nó được tha thứ
hãy nhìn nó hàn gắn
như một vết sẹo.

----- D.F. Brown

 

.

HERBERT KROHN

 

z 03 y Winning hearts and minds book of poems
Bìa tuyển tập Winning Hearts and Minds (NXB First Casualty Press), 1972

.

Tuyển tập Winning Hearts and Minds (NXB First Casualty Press) xuất bản năm 1972 gồm 109 bài thơ của 33 cựu chiến binh Mỹ tại chiến trường Việt Nam. Chúng ta có thể hình dung ra bối cảnh: năm 1972 là năm của Việt Nam hóa chiến tranh, và là năm của nhiều trận đánh dữ dội được gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, và các nhà thơ cựu chiến binh Mỹ từ Hoa Kỳ nhìn về Việt Nam để ấn hành thi tập này. Trong tuyển tập có tham dự của nhà thơ Herbert Krohn, một bác sĩ Quân Y Hoa Kỳ, với bài thơ nhan đề “Farmer’s Song at Can Tho” (Ca khúc của nông dân tại Cần Thơ), với những dòng rất hòa bình như sau:

.

Ca khúc của nông dân tại Cần Thơ

Chỉ là một nông dân
ruột và tim cất tiếng hát
trồng lúa vào vụ mùa
rồi quỳ lạy dòng sông.
Tôi là một nông dân và tôi biết những gì tôi biết
Mùa gặt tháng này là lúa xanh cao
Mùa gặt tháng tới là những đàn bọ rất đói
Làm sao có hòa bình được nơi đất nước xanh tươi này?

----- Herbert Krohn.

.

 

WARREN WOESSNER

 

z-04-y-Warren-Woessner-Poets
Warren Woessner nhiều năm sau cuộc chiến

 

Warren Woessner là một nhà thơ và là một luật sư ở Minneapolis, Minnesota. Sinh năm 1944, ông thuộc thế hệ có rất nhiều bạn hữu tham dự cuộc chiến tại Việt Nam. Ông có bằng Tiến sĩ Luật và bằng Tiến sĩ Hóa Học từ University of Wisconsin-Madison. Là tác giả nhiều tập thơ. Bài thơ sau ông viết vào tháng 4/1971, khi nghe tin chiến cuộc tại VN lan sang Lào.

.

Trên Bầu Trời Xứ Lào

Mặt trận thứ nhì đang quét
tới chúng tôi. Một trận bão hè khác
chúng tôi nghe thấy. Không khí dầy đặc.
Trên mặt đất, ánh đèn bật sáng
như các đôi mắt kinh hoảng. Ngọn gió
trườn bụng xuyên qua lá cỏ.
Từ phía tây, còi báo động cháy tới gần
Những người vợ cầm radio xuống hầm nhà.

----- Warren Woessner

JIM OLSON

 

z 05 Nui Ba Din_Jim Olson
Hình ảnh kèm bài thơ Jim Olson: Núi Bà Đen nhìn từ chiến hào.

 

Nhà thơ Jim Olson có mặt ở Việt Nam các năm 1969 – 1970, chức vụ Phó Tuyên Úy trong Tiểu Đoàn Công Binh 588, Trung Đoàn Công Binh 65, Sư Đoàn 25 Bộ Binh. Nơi đóng quân chính của Jim Olson là Củ Chi, nhưng bài thơ sau là viết về Núi Bà Đen, Tây Ninh. Nhan đề bài thơ là “Nui Ba Din” thực ra là cách đọc sai của tên gọi “Núi Bà Đen.” Nhưng thi sĩ hiểu đúng nghĩa Núi Bà Đen, vì Olson dịch qua tiếng Anh chính xác như thế. Bản dịch sẽ giữ nguyên cách viết sai chính tả.

 

NUI BA DIN

Ngọn núi Đức Mẹ Đồng Trinh Da Đen
nơi phía đông Tây Ninh
Trạm viễn thông Mỹ nằm nơi đỉnh núi
các căn cứ yểm trợ hỏa lực nằm quanh chân núi
Việt Cộng kiểm soát phần giữa núi
Vào đêm, họ rời núi để bắn phá
.
Hôm sau, chúng ta sẽ dội bom Nui Ba Din
Bao trùm một đám mây khói
Việt Cộng dùng đường hầm
chui vào nơi an toàn của núi
Đêm đó họ tái xuất hiện để gây hỗn loạn.
.
Nui Ba Din hiển lộ được cuộc chiến
Chúng ta có viễn thông điện tử tốt hơn
Chúng ta có hỏa lực mạnh hơn
Họ ở nơi cánh đồng nhà.
.
Họ có quyết tâm và kiên nhẫn hơn
Chúng ta có ngọn và chân núi
nhưng họ có giữa núi
Và chúng ta không cách gì bứng họ ra.

----- Jim Olson

Riêng với những người Việt Nam, một thời trải qua cuộc chiến, làm thế nào có thể quên những trận mưa bom trong ký ức? Đất nước đã trải qua nhiều cuộc chiến. Nơi các chiến hào đã mọc lên những rừng cây lá mới. Núi Bà Đen, nơi một bài thơ trong bài từng ghi về một thời chiến tranh khói lửa, bây giờ là nơi có Tượng  Phật Bà bằng đồng cao nhất Châu Á được tạc trên đỉnh núi, cao 72m và được đúc từ 170 tấn đồng đỏ. Nơi người ta một thời cầm súng, bây giờ là cầm kinh điển, hương đèn. Các trang sách cũ đang khép lại. Và những trang sách mới đang mở ra. Thế hệ những người tham dự Cuộc Chiến Việt Nam đang từ từ ra đi.

Các trận mưa bom thế kỷ trước, bây giờ là những dòng chữ lặng lẽ nằm trên trang sử, nơi đó nhân loại sẽ học để biết cách yêu thương nhau, tôn trọng nhau cho một kỷ nguyên mới.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một cõi mênh mông các cảnh giới. Cũng là một chiếc kén bé nhỏ gói bí ẩn về giấc mơ một ngày kia sẽ tung ra muôn trùng tơ quấn quít hiện thực. Một khung cửa khép với chờ đợi, với cô lẻ số phận. Một bầu trời cao rộng với những đường bay mạnh mẽ hoan lạc của cánh chim tự do. Một mặt biển bị xao động bởi những con sóng ngầm làm ngạc nhiên thinh lặng của vực sâu. Là cánh cửa được mở tung bởi ngôn ngữ như những tiếng gõ dồn dập. Là bức tường bức phá bởi sức mạnh của ý tưởng. Là con đường hiểm hóc hay mượt cỏ, những bước chân vẫn đi tới đi tới. Ở đó bạn nghe được khát vọng tìm hạnh phúc chân thực như trở về cội nguồn tâm sâu thẳm. Ở đó bạn sẽ thấy cảm xúc mình bung ra như sắc mầu của chiếc kính vạn hoa. Ở đó, những con chữ như nam châm hút cảm xúc người đọc. Ở đó, từ trường say đắm thơ mộng của Đinh Thị Như Thúy, Phạm Thị Ngọc Liên, Nguyễn Thùy Song Thanh, Vũ Quỳnh Hương.
Nhã Ca với tập thơ đầu tay Nhã Ca Mới, đoạt giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc về thơ năm 1965. Giải Khăn Sô Cho Huế (1969) đoạt Giải Văn Chương Toàn Quốc về văn năm 1970, và Tuệ Mai đã đoạt giải Văn Chương Toàn Quốc về thơ năm 1966 với thi phẩm Không Bờ Bến. Thơ. Họ là cột mốc đánh dấu cho sự chuyển mình khai phá bứt ra khỏi phong cách thi ca tiền chiến. Thi ngữ, thi ảnh nơi họ khơi gợi ở người đọc cảm xúc mới mẻ, thi pháp tuy còn giữ nhiều về thể luật của các loại thơ vần điệu, nhưng được chở dưới nhạc điệu cấu tứ mới – kể cả lục bát – nên cũng có thể nói họ đã cách tân những thể loại thơ này vào thời đó, đặc biệt, ở thể loại tự do, với Nhã Ca, một luồng gió mạnh thổi bật gốc rễ của trói buộc ngôn từ, định kiến.
Tôi đã đọc thơ Nguyễn Quốc Thái từ hơn một thập niên. Và nhiều người đã đọc thơ anh hơn một nửa thế kỷ. Hình như, tôi chưa thấy dòng thơ nào vui của anh. Và ngay cả những dòng thơ có thể được suy đoán là vui, cũng vẫn có một nỗi buồn thần bí trong đó – nơi đây, đành nói là thần bí, vì không giải thích minh bạch được. Cũng có thể vì tôi thấy nét mặt anh lúc nào cũng buồn. Đó là những lần tôi được gặp anh, khi anh có dịp thăm Quận Cam. Cũng có thể vì Nguyễn Quốc Thái là một nhà thơ ra đời trước tôi khoảng một thập niên, thuộc một thế hệ có nhiều chia ly hơn là gặp gỡ, nhiều tan vỡ hơn là hàn gắn. Cũng có thể vì một vài câu thơ của Nguyễn Quốc Thái, tôi đã đọc qua, và chợt nhớ một vài ý trong đó. Như bài thơ có nhan đề Todo Passa. Anh làm bài thơ này từ Sài Gòn, vào tháng 12 năm 2017. Trích năm dòng đầu như sau. / Một mình tôi với những câu thơ đau đớn mới/ Lời vỗ về an ủi như tiếng gió lùa qua bến bờ lau sậy / Tôi ngã xuống như một hẹn ước dở dang ...
thở lên cầu lộng chân mây/ loa xa nhánh nữa cởi vai sông triền / từng say đắm rượu bách niên / cây nhân gian sẽ nhện phiền muộn giăng / bím thư sinh bới lọn mầm / lưới yêu mị chải lệch tâm lược ngà / nhá nhem đóm lội tịch tà / cái hôn ám cũ tách ra giữa vời
Một nhà phê bình văn học ngoại quốc đã nói đại ý: Nếu các nhà thơ hiện đại không có độc giả, họ có thể tạo ra độc giả. Đây thuộc vào phần lớn thi tài của nhà thơ. Để có được một bài thơ ra thơ, nghĩa là, được sinh ra từ cảm xúc thực, có sự mới lạ của chữ và nghĩa, và ít nhất là có nhạc thơ. Thơ hiện đại có khi nghiêng về lý sự mà coi nhẹ cảm xúc. Làm thế nào để một bài thơ triết lý, suy tư, gây được rung động Thơ nơi người đọc? Thơ Nguyên Yên có một gợi mở như thế. Thơ của cô trầm tĩnh, đầy những suy tư triết lý, và táo bạo một cách sáng suốt để không phá đi thẩm mỹ từ của thi ngữ. Cô tôn trọng thi ngữ, cô triết lý bằng cảm xúc thơ (là khi trái tim phỉnh cái đầu… ), và vì vậy dòng thơ hiện đại của cô bật lên được nhạc chữ rất riêng của thơ tự do, đọc lên, có được cảm xúc đọc một bài thơ, cảm được cái mới lạ của chữ, nghĩa, hình ảnh. Suy tư mà vẫn ánh lên nét thơ mộng, lãng mạn, đặc biệt là những bất ngờ ở cuối bài thơ. Đó là những yếu tố mà thơ Nguyên Yên đã chinh phục được người đọ
Em đi để lại mây ngàn quyện vào chuông mõ, phím đàn nửa đêm Thương anh không ngủ giấc thiền nụ cười em gửi ngoài hiên cúng dường Em đi phả lại mùi hương ướp làn gió sớm, thơm đường mây trưa Thương anh trăm nắng ngàn mưa lái đò cổ độ giúp đưa qua bờ.
em dáng mới tháng giêng về ngụ/ giọt bích ngần thư thái vô ưu/ ngày nguyên đán phô nguyên lời gió/ tóc thơm mây rạng rỡ ca từ
Trong mơ tưởng của tôi/ Âm thanh những sợi mỏng nhịp nhàng. Neo trên cùng một nhịp. Ngày và Đêm. Giấc mơ và thành tựu. Anh và em./ Trong mơ tưởng của tôi / Ánh sáng rực rỡ sóng, run trong ngực viên đá bổn mạng đại dương xanh. Nhốt vào sâu thẳm tiếng đập sóng gió. Tôi trôi. Phập phồng điểm hẹn. Nhịp vui trái tim đẩy dòng chảy thời gian rộn ràng trong mạch máu./ Trong mơ tưởng của em. Thương khó một mùa gặp gỡ. Dẫu bước chân em giờ như chiếc lá khô lăn theo năm tháng. Mộng mơ là cuống mỏng manh. Nuối nhìn mắt gió.
Các nhà thơ nữ Việt Nam đầu thế kỷ 21 đã góp phần tạo nên sự sinh động, thay đổi diện mạo thi ca Việt Nam. Thế giới ngày nay như một tảng băng đang trôi dần về vực lửa, nơi đó ranh giới của thiện ác phải trái trở nên mù mờ, lòng người bị phân chia bởi trăm ngàn biên giới, mọi niềm tin thành nghi hoặc. Trên tảng băng đang tan ấy, thi ca của lớp nhà thơ nữ này như một bến bờ để neo lại những phân rã, để hiệu đính lại những phù phiếm, sai lầm của định kiến, bằng cái nhìn sắc xảo, thực tế, táo bạo, thách thức. Thi pháp hiện đại, được thể hiện qua ngôn từ mới mẻ và hình ảnh đầy sáng tạo. Sức thuyết phục của họ dường như nằm ở then chốt Cảm Xúc Thi Ca, một thứ cảm xúc dịu dàng của nhân ái, tràn trề của tự do, kiêu hãnh của độc lập, ngang tàng của bức phá, cho người đọc thấy được một cái Tôi-Nữ-Tính đầy tự tin, lấp lánh nữ quyền. Nói có vẻ nghịch lý, nhưng, chính niềm tự tin, phóng khoáng ấy lại khiến thơ của họ mang chất thơ ngây và gợi cảm.
Muốn sống hạnh phúc thì phải xa lìa mộng ảo. Chứ không phải chạy theo huyễn hóa của đời. Như Phật dạy trong Kinh Bát Nhã: “Điên đảo một khi đã viễn ly, Thì Niết Bàn hiện ra ngay trước mắt.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.