Thơ Viên Linh

05/04/202400:00:00(Xem: 1552)
 
Cõi thơ Viên Linh là cõi nhân sinh đầy hệ lụy của định mệnh. Định mệnh của một dân tộc điêu linh, lưu lạc. Định mệnh của con người bé nhỏ và yếu ớt trong dòng chảy cuồng lưu của kiếp sống. Định mệnh của tình yêu mệt mỏi, chán chường và bất trắc. Thơ Viên Linh là một biểu hiện cho Con Người như là một hữu-thể-tại-thế với tất cả những khổ đau và hoan lạc. Ông vừa tạ thế hôm cuối tháng Ba vừa rồi, Việt Báo trân trọng đăng lại một số ít thơ của ông như một nén tâm hương gửi đến người Thi Sĩ quá cố.
 
*
 sach 1
 
 
Cúc Hoa
 
Ngồi ôm gối hạc canh dài
Sáng hung ta thấy bụi ngoài xác khô
Đứng ôm vóc hạc gầy gò
Quanh ta bỗng lẫn sương mù nghìn năm.
 
Mộng du
 
Chiều rơi với mốc ưu tư
Tay xương đá mặn thân gù núi cao
Trong tôi niên cổ rì rào
Hồn không phách nhẹ mộng nào trôi qua
 
Năm năm mòn mỏi quê nhà
Thời gian nổi bóng còn ta đứng chờ
Tay dài viễn mộng quanh co
Canh thâu bóng đợi bây giờ bóng đi
 
Ngủ còn quên khép đôi mi
Xương da những bọt phân ly tiếp dài
Sáng rồi tắt bóng tương lai
Thôi xong tuổi trẻ thôi hoài mộng em.
 
Dương thế
 
Thôi em cõi đó ưu phiền
Anh xin thân thể kiếm miền truy hoan
Ngón này chỉ lạc nhân gian
Luân lưu kiếp mọn còn tham dục đời
 
Kiếp về trả lại thân ôi
Đêm nay hóa tượng thành ngôi đứng chờ
Tượng này lệ nhỏ tay thưa
Sầu tôi dương thế còn chưa đủ buồn.
 
Những lời vĩnh biệt của nàng
 
Tôi ngỏ lời chào tất cả anh em
Rồi trở về đêm đi rất muộn màng
Một người con gái đứng trông thành phố
Sợi tóc dài rơi xuống cánh tay
 
Tôi cúi lượm ngậm ngang môi rồi khóc
Làm con chim tha cọng rác khô
Rủ cánh tay về hiên ngói xám
Đêm muộn màng đêm hãy xót thương
 
Tôi đi trên những bước chân buồn
Qua tuổi đời rồi qua một bến kia
Bóng cây xếp hàng coi cột điện
Trong lòng khô từng miếng sắt non
Mẩu than tro kẹt trong kẽ tay gầy nọ
Là mặt trời cô đơn chết giữa hàng cây
 
Đốm thuốc lập lòe trên đôi môi buồn nọ
Là lời ca em tôi vẫn kiếm tìm
 
Mây xuống thấp cây còn những tăm hương
Trời rã thành bụi tàn rơi lặng lẽ
 
Rồi lụi dần trong đó cùng em.
 
*
 
Thuy Mo Quan
 
 
Một nhánh sông
 
Chiều về trên một nhánh sông
Bên tôi con nước đỏ lòng quanh co
Nước loang dưới đáy trời dò
Buồn tôi thánh thót trên lò nhân sinh.
Tôi sôi bộ ngực ái tình
Tan thân địa ngục biến hình dương gian
Tôi tan vồi vội tôi tan
Bay trên cái sống mối hàn âm ty
Củi tôi đây củi tứ chi
Đốt lên sưởi ấm từng khuya với người
Chiều về trong một cánh dơi
Bên tôi bóng xám bay trời âm u
Mắt vàng khép muộn trời thu
Hồn tôi chập choạng cái mù nẻo xa
Tôi nghiêng một bóng chiều già
Soi trong tâm trí ngôi nhà tịch liêu
Tôi yêu vồi vội tôi yêu
Ôm chưa đầy ngực bấy nhiêu mộng tàn
Chiều về thân ngại truy hoan
Nghe trên giá sách bụi vàng dâm thư
Đêm nay ngọn lửa chần chờ
Bên tôi trời đất từ từ quên quên
 
Cõi đời tôi
 
Chiều nay tôi tỉnh hay mê
Ở đây hay đó mới về hay đi
Đời nay tôi lỡ xuân thì
Soi gương lệch mặt khác gì nhân gian.
Mưa gieo theo mái buồn vàng
Nhân sinh những bóng điêu tàn nghiêng nghiêng.
Chiều nay tôi đó ưu phiền
Ngón tay dài ngắn đất liền biển khơi
Sống tôi này chết như tôi
Thịt xương của quỉ xui đời gian tham.
Mưa gieo, trăm giọt xô đàn
Xuân thu cuồn cuộn tiếng hàn kêu lên.
Giờ đây hình thẳng bóng nghiêng
Ban đêm tránh sáng ngày kiêng mặt trời
Ở đời địa phủ cho tôi
Về đâu kẻ lạ, đứng ngồi loanh quanh.
Mưa gieo tâm trí tan tành
Chiều nay con thú soi hình tưởng ai.
 
*
 
Hình trang thơ
 
Ẩn Mật

I.
Mùa xuân tôi trở lại
Miền Tây hoa đang tàn
Duy những nhánh cành xanh vĩnh cửu
Khăng khăng vươn ngọn vượt thời gian
Nhắc nhở gã vương tôn thất chí
Cúi ngó lòng mình
 
Ôi cánh thẳm yêu thương
Bay mải miết trong vườn em mộng mị.
 
II.
Tôi lóp ngóp kiếm tìm
Giấc mộng đời ấp ủ
Trong rực rỡ bình minh
Âm u hồn héo úa.
 
Vẫn im soi kiến trúc cổ thời
Dáng phượng hình loan
Triều các cũ.
Về đây lòa sáng nhật nguyệt đường
Rọi chiếu anh lao lung hai bờ sinh tử
Hoặc
Yêu em,

Ôi một tối trúc tơ lòng tư mã lưu vong
Trong khô hạn rạt rào mưa ẩn mật.

III.
Chúng ta trông nhau đi
Giữa vườn đời quạnh quẽ
Cành nhánh mọc xum xuê
Trái nhân sinh hệ lụy.
 
Tháng Tư hoa máu rụng bời bời
Biển ngoài đất nhớ
Kiếp kiếp chờ mong
Em khép mắt tối bừng chấn song tù ngục
Anh cô đơn hối hả bốn tường vây
Lạ mặt.

Soi bản hoài
Soi cùng quẫn đau thương
Thấy chớp mắt mưa sa
Thấy chập chùng tuyết đổ
Sao đôi ta yêu nhau chẳng cùng gắn bó
Chập choạng cánh dơi về
Kiếm đâu thiên đường lỡ,

Em hãy hát anh nghe
Câu hát Bắc Ninh
Điệu hò cố lý
Đời một mai ai biết thuở trùng hưng
Trong tro bụi phượng hoàng vươn cánh dậy.
 
IV.
Chẳng phải hồn tăng lữ
Ngờm ngợp mái vô thường
Rượu uống như nước lã
Lòng tịnh tựa thu sương
 
Yêu em u uất trăm năm chậm
Đêm gửi tình đau qua đại dương
Hỡi ơi hoang phế miếu đường
Lòng son như ngói âm dương tan tành
Yêu người mái tóc còn xanh
Trong đôi mắt mộng còn anh đợi chờ
Chín năm rồi chín năm qua
Fm ơi có nhớ Đạt Ma ngồi thiền
Tịnh tâm. Bẻ gối. Tìm quên
Một hôm bích nhãn lên thuyền về Đông.

V.
Nhớ lại tháng này mải miết
Lớp lớp tàn vong
Bằng hữu chia tay
Anh em bốn hướng biệt mù giông bão tán
Còn lại ta hớt hải giữa đường
Ngó lung giòng nước lặng
Soi suốt hình dong chàng dũng sĩ vô nhan
Gươm đàn lỡ dở
Một tối cuồng say hương phấn
lãng chuyện Non Sông
Kết duyên đời ẩn dạng.
 
Ai hay buổi sáng tỉnh thức mơ mòng
Mênh mông bến nước
Mới biết đêm qua ngủ vùi đò dọc
Say giả chân gầy cuộc trăm năm,

Xưa hảo hớn một thời
bôn ba tới Lương Sơn Bạc
Chiều tà lỡ bước
Hươi gươm chẹt lộ
riết rồi thành kế mưu sinh
Rốt cuộc chỉ làm tên cướp cỏ
Tôn gái quê làm áp trại phu nhân,

Hưỡn hưỡn một phương hùng cứ mọn
Mơ xa chỉ thấy bụi trên đường.

VI.
Đôi khi tôi thất lạc
Trong chữ nghĩa hàm hồ
Giữa đường lầm bạn tác
Hư ngụy tưởng chân như.
 
Xem tranh trê cóc quên đồng dạng
Niệm Phật Quan Âm bụng vẫn ngờ
Chuyện cũ mười lăm năm nhớ lại
Lòng như sương giá hối bi thu.
 
VII.
Lúc gặp người bạn mới
Tình ngỡ tự xuân xanh
Yêu ngay không kịp nói
Hai mươi năm tìm em.

VIII.
Mọc ở biển đông trong tuyết giá
Thơ ôm niềm nhớ ngại Trăng tan
Hạc vàng mai có bay theo gió
Trăng lặn về Tây Thơ lặn sang.
 
 
IX.
Câu hỏi Thơ là gì?
Cỏ hoa nào muốn trả lời
Giáo điều đành không thể.
Thơ đắm chìm kẻ sĩ lưu vong.
Thơ yêu đương ngược đường tuổi trẻ.
Thơ triều các phế hưng biển dâu quá khứ.
Thơ tro tàn trùng phục ngày mai.
Thơ của tôi tịch mịch đền đài
Bát ngát tuyết đông sang
Biệt mù thu phong hỏa.
U huyền em cặp mắt đêm sâu
Lòng nhiệt đới lời ngọt ngào thổ ngữ

Rào rạt mùa xuân cũ
Nỉ non mưa những mái nhà sầu
Ẩn mật,
Em,
Đâu?
 
X.
Nghi thức của ngày hội ngộ:
Dưới chân thang, (lặng lẽ), đợi chờ em.
Thoảng nhẹ như sương rơi đọng đầu thềm
Cửa hé mở, (cầm tay), thân quấn ngã.

Chuyến bay khuya
Dung nhan mờ tỏ
Lai về đây ngôi nhà cuối ngõ

Âu yếm ca dao
Mặn mà tục ngữ
Mắt cười xanh. Giọng biếc. Ẩm hường môi.
(Nghiêm cẩn) xin em hái một nụ cười
Đặt vĩnh viễn trong bình hoa thảo mạc.

XI.
Hoa dung nhan rực rỡ
Cây nhân sinh rạng ngời ...
 
XII.
Mùa xuân tôi trở lại
Miền Tây hoa đang tàn
Cánh hạc trong Trăng kịp về trước sáng
Soi mở nhật nguyệt đường
Tìm thấy mộng ấu thời ấp ủ
Sau lớp bụi thời gian quên.

Đêm qua anh hỏi ngọn đèn
Tàn bao nhiêu mộng thì em giải thề?
Đèn không soi thấu cơn mê
Mênh mông Trời Đất lối về đời nhau.
 
Đến đây thân ái cửa vào
Bình yên phút ở lao đao phút lìa
Hai người cùng hỏi sao khuya
Bao năm thảo muội sầu kia mới tàn?
Sao không tỏ. Thét sao băng
Vụt nghe tiếng hạc trong Trăng gọi mời
Chúng ta một lứa bên trời
Yêu nhau yêu tự cõi đời sơ tân.

Ba sinh hương lửa có gần
Gửi em đầy đủ
Thân
Tâm
Ý
Lời.
Gửi em tiếng khóc câu cười
Văn Chương, Hạnh Phúc, Cuộc Đời, v.v...
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mắt tháng Tư không còn hạt lệ. Mắt tháng Tư chiêu niệm màu cờ. Mắt tháng Tư chập chờn bia mộ hồn tử sĩ từ cổ kim thao thức. / Mắt tháng Tư rưng màu huyết phượng. Mắt tháng Tư ngào cơn huyết biển. Thân giạt cỏ bồng hồn khua nước bao lâu rồi thủy mộ. / Trái tim người đi rơi dần từng mảnh, buồng ngực khô nhớ gió phương nam máu đỗ quyên khắc khoải quê nhà. / Mắt tháng Tư nở bông hoa trên cành hy vọng mỗi đóa hoa như một giọt nước mắt hồng rơi xuống trái tim tôi. / Mắt tháng Tư dẫu ngàn năm vô tự, mảnh lao đao lịch sử. Lật từng chương… / Giấy mực đời chép ra, ví thiếu. / Lấy da này viết để tạ nhau…
tháng tư đưa tay nhặt / vỡ nát của ngày xưa / còn đây, chồng sách cũ / những quả chín trái mùa / còn đây, chiều gió nổi / những ngôi mộ rạp mình / bia gỗ nào run rẩy / hồn linh nào tủi thân / chiến trường lâu đã nguội / hơi sắt và hơi đồng / mấy chục mùa hoa rụng / hư không tìm hư không
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ là một vị học giả uyên bác về Phật giáo, nguyên giáo sư của Đại học Vạn Hạnh tại Sài Gòn, nhà văn, nhà thơ, dịch giả và là một người bất đồng chính kiến với nhà cầm quyền và đã bị cầm tù trong nhiều năm. Năm 1998, Hòa Thượng được tổ chức Human Rights Watch tặng giải thưởng về nhân quyền Hellmann-Hamett Awards. Hòa Thượng là Xử lý Thường Vụ Viện Tăng Thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất. Hòa Thượng thông thạo tiếng Trung Quốc, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Pali, tiếng Phạn và tiếng Nhật, đọc hiểu tiếng Đức. Hòa Thượng được giới học giả Việt Nam đánh giá cao vì đã công bố nhiều tiểu luận, chuyên khảo, thơ và nhiều công trình dịch thuật Phật giáo từ tiếng Phạn, tiếng Trung Hoa và tiếng Nhật, được coi là nhà sư uyên bác nhất của Phật giáo Việt Nam, đã soạn thảo quyển Bách Khoa Phật Học Đại Tự Điển.
Đó là tựa đề một bài viết của nhà thơ Phan Tấn Hải, và đây là kết của bài: “Chữ nghĩa không vô ích. Chúng ta trong cõi này hãy rủ nhau làm thơ, đọc thơ, ngâm thơ, in thơ, hát thơ… Nếu chúng ta không đủ sức nương vào thơ để ngộ nhập tri kiến Phật, và nếu chúng ta cũng không có đủ sức mạnh của hát thơ để chữa sản nạn như thời Vua Hùng Vương, ít nhất thơ cũng giúp chúng ta giảm được những đau đớn của trần gian này, kể cả khi buộc phải nghe tới bốn dòng thơ ly biệt tương tự của Cha Rồng và Mẹ Tiên thời lập quốc dân tộc Việt Nam (Ta là giống Rồng / Mình là giống Tiên / Thủy thổ khắc nhau / Không ở cùng được.) Nàng thơ ơi, hãy cứu lấy trần gian này. Hãy biến tất cả những trận mưa bom trên trần gian này thành các trận mưa thơ…” (Phan Tấn Hải, Thơ sẽ chữa lành thế giới
Ta về một cõi tâm không / Vẫn nghe quá khứ ngập trong nắng tàn / Còn yêu một thuở đi hoang / Thu trong đáy mắt sao ngàn nửa khuya / Ta đi dẫm nắng bên đèo / Nghe đau hồn cỏ rủ theo bóng chiều / Nguyên sơ là dáng yêu kiều / Bỗng đâu đảo lộn tịch liêu bến bờ / Còn đây góc núi trơ vơ / Nghìn năm ta mãi đứng chờ đỉnh cao
Nhà văn Jon Fosse vừa đoạt giải Nobel Văn chương về kịch nghệ năm nay, 2023. Ngoài ra, ông cũng nổi tiếng trong lãnh vực thơ và truyện. Tác phẩm của ông được dịch ra khoảng 50 ngôn ngữ. Tìm hiểu về mục đích sáng tác, ông cho biết, “I hope they can find a kind of peace in, or from, my writing.” (Tôi hy vọng người đọc có thể tìm thấy sự bình an trong các tác phẩm của tôi.) Tác phẩm nổi tiếng với nội dung sâu đậm của ông là dãy “Septology”. Đây là một từ vựng mới, có ý nghĩa là một loạt bảy cuốn sách. Có lẽ, Septology phát xuất từ “Heptalogy” mà ví dụ rõ rệt nhất là dãy tác phẩm Harry Potter.
Mùa thứ ba trong năm đã chớm về. Autumn ngoài nghĩa mùa thu, còn mang nghĩa ẩn dụ là chỉ lúc xế chiều, lúc ngày sắp tàn, là mùa mà ban ngày ngắn và dần lạnh hơn. Bên cạnh hình ảnh biểu tượng là mùa lá rụng, lại cũng là mùa phần lớn trái cây được thu hoạch, vì gắn với đời sống thiên nhiên này mà từ rất lâu văn hóa Tây phương đã nhân cách hóa mùa thu là người phụ nữ trẻ đẹp đầy sức sống với mái tóc gắn đầy lá hoa quả chín, là hình ảnh vừa nên thơ vừa chứa đựng sức sống diệu kỳ của mùa gặt hái.
Nhà phê bình văn học Trung Quốc đời nhà Thanh, Viên Mai, có nói, “Làm người không nên có cái tôi, nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi”. Thi hào Tagore cho rằng, “Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ảnh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong”. Cả hai nhận định này đều đề cao cái Tôi-làm-Thơ, và cách biểu hiện những thuộc tính về Tôi ấy như thế nào trên ngôn từ thơ. Có hai yếu tố không ai phủ nhận được là cảm xúc và sáng tạo, chính hai yếu tố này định hình phong cách của nhà thơ. Cảm xúc thực được chuyển tải qua thi ngữ, thi ảnh mới mẻ, cá biệt, thì thơ càng có sắc thái nổi bật để lại dấu ấn riêng trong lòng người đọc, dường như không quá để nói rằng điều này định đoạt sinh mệnh một bài thơ. Thơ chỉ thực sự sống khi nó phản ảnh được bản ngã độc đáo của nhà thơ.
Tháng 7. Mùa hè đang gửi đến đây một sứ giả vô cùng dễ thương. Phượng tím. Đi đâu chợt cũng bị màu tím thơ mộng ấy níu mắt nhìn, làm dịu đi cái nóng chói chan. Bạn đang ở đâu, buổi sáng rực nắng đi chơi hay chiều mệt nhoài sau giờ làm việc, hay tối, hay khuya, hàn huyên bạn thiết, hoặc giả nói chuyện một mình, tất cả những tâm trạng thời gian đó, bạn sẽ tìm thấy được trong Căn phòng chứa đựng mọi khoảnh khắc, nơi các nhà thơ Hoàng Trúc Ly, Duy Thanh, Nguyễn Thùy Song Thanh, Tomas Transtromer, Âu Thị Phục An, Chiêu Anh Nguyễn, Nguyễn thị Khánh Minh, Trương Đình Phượng, Inrasara, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Xuân Thiệp, đọc cho bạn nghe những vần thơ mang âm hưởng chói chan của mặt trời mùa hạ, hoang mạc gai xương rồng, mật ngọt của thiên nhiên…
Một mùa hè, khi chàng vẫn còn trẻ, chàng đứng bên cửa sổ và tự hỏi họ đã đi đâu, những người đàn bà ngồi bên biển, ngắm nhìn, chờ đợi một điều gì đó không bao giờ đến, gió nhẹ phả vào da họ, gửi những lọn tóc xoã ngang môi họ. Họ đã ngã xuống từ mùa nào, họ đã lạc lối từ ý niệm nào của nét yêu kiều? Đã lâu rồi kể từ khi chàng nhìn thấy họ trong vẻ lộng lẫy đơn độc, trĩu nặng trong nỗi biếng lười, dệt nên câu chuyện buồn về niềm hy vọng bị bỏ rơi. Đấy là mùa hè chàng lang thang trong màn đêm kỳ vĩ, trong biển tối, như thể lần đầu tiên, để tự toả ra ánh sáng của chính mình, nhưng những gì chàng toả ra là bóng tối, những gì chàng tìm thấy là đêm.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.