(Lời tâm tình: Bài viết về “Sử Việt” chỉ khái quát, không đi sâu từng chi tiết của mỗi nhân vật. Cuối mỗi bài viết, phần “Thiết nghĩ” nếu có chỉ là góp ý của tác giả, không ngoài mục đích làm sáng tỏ thêm về nội dung đã biên soạn. Trang Sử Việt luôn mong mỏi nhúm nhen tình tự dân tộc, niềm yêu thương quê hương và giữ gìn Việt ngữ cùng văn hóa Việt. Trang Sử Việt đăng trên Vietbao Online vào thứ Ba và thứ Sáu hàng tuần).
________________
TẢN ĐÀ NGUYỄN KHẮC HIẾU
(1889 - 1939)
Nguyễn Khắc Hiếu, quê tỉnh Sơn Tây, hiệu Tản Đà (ghép bởi núi Tản và sông Đà ở quê ông). Lúc trẻ ông có tiếng là thần đồng, khi học trường Quy Thức, bài “Âu Á nhị châu hiện thế” của ông rất nổi tiếng nhưng lại thi hỏng nhiều lần.
Ông yêu con gái ông tri huyện phủ Vĩnh Tường nhưng mối tình này thất bại, sau đó ông lại thương da diết cô bán sách họ Đỗ ở phố Hàng Bồ. Cô yêu cầu ông cố gắng đỗ kỳ thi Hậu bổ nhưng ông bị hỏng khi thi vấn đáp; ông hỏng luôn thi Hương. Cô gái có chồng khác ông ray rức nhớ nhung:
“Quái lạ sao ta cứ nhớ nhau
Nhớ nhau đăng đẳng suốt canh thâu
Bốn phương mây nước người đôi ngả
Hai gánh tương tư, một gánh sầu”
Năm 1913, ông ra làm báo, cộng tác với Đông Dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh. Năm 1921, ông làm chủ bút báo Hữu Thanh bị thất bại, lập tiếp Tản Đà thư cục, rồi An Nam tạp chí nhưng bị đình bản. Tản Đà vào miền Nam viết cho báo Thần Chung và Đông Pháp thời báo được một thời gia thì ông trở lại miền Bắc tái lập An Nam thời báo nhưng cũng thất bại. Ông phải dịch thơ Đường cho báo Ngày Nay và dịch Liêu trai chí dị và chú thích truyện Kiều cho nhà xuất bản Tân Dân. Ông cũng là người yêu nước nồng nàn, thể hiện tinh thần ấy khi thấy quốc gia bị tang tóc qua bài: “Vịnh bức dư đồ rách”:
“Biết bao lúc trước công vườn vẽ
Sao đến bây giờ rách tả tơi”
Trong 25 năm làm báo và cảm tác thi phú, ông để lại:
- Tiểu thuyết: Thề non nước. Giấc mộng lớn. Giấc mộng con...
- Luận thuyết: Tản Đà tùng văn, Tản Đà Xuân sắc...
- Dịch thuật: Liêu trai chí dị, Đại học, Đường thi...
*- Thiết nghĩ: Những nàng tiên nhớ nhung da diết trong lòng Tản Đà, ông cố đeo đuổi thì bị hụt hẫng nhưng nàng thơ lại chung thuỷ với ông suốt đời. Sự sắt son của nàng thơ với Tản Đà đã đưa danh tiếng ông trở nên rực rỡ, năng lực sáng tác càng ngày càng dồi dào. Ông là một cây bút phóng khoáng, phong phú về mọi lãnh vực văn chương. Văn thơ ông lãng mạn nếu không muốn nói là ngông nghênh, với tâm tư đặc biệt.
Tản Đà là người hun đúc và thai nghén cho sự ra đời thơ mới trong nền văn học Việt Nam, ông đã dang tay kết hợp giữa nền văn học cổ điển với văn học hiện đại.
Trong lĩnh vực thi ca, dòng thơ của Tản Đà mượt mà, có màu sắc riêng, đã vượt thời gian và không gian. Thơ cảm tác của ông đặc sắc, thơ dịch của ông càng sát nghĩa bản chính, càng uyển chuyển nhẹ nhàng. Thơ dịch của ông, thường là các bài thơ lục bát dịch từ thơ Đường; có thể là hay hơn các bản dịch khác, có những bài thơ dịch của ông còn hay hơn cả nguyên tác. Vì thơ dịch của ông sáng sủa, không bị gò bó, tâm hồn dịch giả có thể cũng rung cảm thật sự vào đó; nhà thơ Bùi Giáng trong cuốn “Đi vào cõi thơ”, đã phát biểu về thơ dịch của Tản Đà: “Vô tiền khoáng hậu”.
Bài “Hoàng Hạc Lâu” của Thôi Hiệu (khoảng năm 704-754) thời nhà Đường. Đương thời, Thôi Hiệu rất nổi tiếng, Hoàng Hạc Lâu được coi là một trong những bài thơ hay đời Đường.
Nguyên tác:
“Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”.
Tản Đà dịch:
“Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai!”
Thể thơ thất ngôn của thi sĩ Tản Đà, chiếm tỷ lệ cao nhất (58%: 106 bài) trong đấy có nhiều bài thơ là tuyệt bút cho hậu thế. Thơ thất ngôn là thể loại có tính quy phạm cao về niêm luật, đối, với số câu số chữ hạn chế, khó diễn đạt trọn vẹn, khó nói hết cảm xúc của thi nhân. Nhưng nhà thơ Tản Đà vẫn uyển chuyển dùng từ nhẹ nhàng, phóng khoáng đã làm say mê người đọc, như bài thơ “Ghẹo người vu vơ”:
“Đầu ai sao tóc rối lung tung?
Chắc hẳn vì chưng nỗi tưởng chồng?!”
Những từ: lung tung, chắc hẳn là từ bình dị rất gần gũi với đời sống dân dã, dễ dàng thấm vào lòng người. Thơ Tản Đà có truyền cảm mạnh, khác với lối ước lệ, trừu tượng của thơ Đường trước đây, thơ ông đã gây cho người đọc đồng tình và vấn vương, xem câu thơ “Đề ảnh mỹ nhân” đã biểu lộ:
“Vẻ ngọc long lanh pha sắc nước
Nhị non ngào ngạt lộn hương giời”
Từ đấy, chúng ta thấy rằng: Văn thơ của Tản Đà, thật sự đã đóng góp rất phong phú cho nền thi ca Việt Nam.
Thơ trào lộng của Tản Đà, có phảng phất lối thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, nhưng thơ ông có vẻ tình tứ và nhẹ nhàng, không châm biếm táo bạo, đả kích mạnh mẽ như Hồ Xuân Hương, bài thơ “Chơi chùa Hương Tích” của ông là một ví dụ:
“Nước tuôn ngòi biếc trong trong vắt
Đá hỏm hang đen tối tối mò
Chốn ấy muốn chơi còn mỏi gối
Phàm trần chưa biết nhắn nhe cho”
Có người cho rằng Tản Đà là người chỉ biết ăn chơi, đã lạc vào cõi mộng; ông hờ hững với quê hương! Thử hỏi một chiến sĩ cầm súng gươm xông xáo nơi chiến trận trừ giặc rất đáng phục, thì một văn thi sĩ dùng văn thơ của mình chống giặc bằng ngòi bút có được hoan hô không?! Ngoài bài thơ “Vịnh bức dư đồ rách”, bài thơ “Chơi trại hàng hoa” ông đã u uất khi thấy đồng bào cơ cực bởi thực dân Pháp đô hộ:
“Ôi Lý, Trần, Lê đâu mất cả
Mà thấy hươu nai đủng đỉnh chơi?!”
Cảm bội: Tản Đà
Tản Đà, lưu luyến bóng hồng nhan!
Nhung nhớ người yêu, tình dở dang!
Cảm tác văn thơ, thanh thảng mộng
Phú thi nghiền ngẫm, gợi miên man!
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn