Hôm nay,  

Trang Sử Việt: Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu

05/05/201700:01:00(Xem: 5502)
(Lời tâm tình: Bài viết về “Sử Việt” chỉ khái quát, không đi sâu từng chi tiết của mỗi nhân vật. Cuối mỗi bài viết, phần “Thiết nghĩ” nếu có chỉ là góp ý của tác giả, không ngoài mục đích làm sáng tỏ thêm về nội dung đã biên soạn. Trang Sử Việt luôn mong mỏi nhúm nhen tình tự dân tộc, niềm yêu thương quê hương và giữ gìn Việt ngữ cùng văn hóa Việt. Trang Sử Việt đăng trên Vietbao Online vào thứ Ba và thứ Sáu hàng tuần).
________________ 
  
TẢN ĐÀ NGUYỄN KHẮC HIẾU
(1889 - 1939)
 
    Nguyễn Khắc Hiếu, quê tỉnh Sơn Tây, hiệu Tản Đà (ghép bởi núi Tản và sông Đà ở quê ông). Lúc trẻ ông có tiếng là thần đồng, khi học trường Quy Thức, bài “Âu Á nhị châu hiện thế” của ông rất nổi tiếng nhưng lại thi hỏng nhiều lần. 
     Ông yêu con gái ông tri huyện phủ Vĩnh Tường nhưng mối tình này thất bại, sau đó ông lại thương da diết cô bán sách họ Đỗ ở phố Hàng Bồ. Cô yêu cầu ông cố gắng đỗ kỳ thi Hậu bổ nhưng ông bị hỏng khi thi vấn đáp; ông hỏng luôn thi Hương. Cô gái có chồng khác ông ray rức nhớ nhung:
 
       “Quái lạ sao ta cứ nhớ nhau
      Nhớ nhau đăng đẳng suốt canh thâu
      Bốn phương mây nước người đôi ngả
      Hai gánh tương tư, một gánh sầu”
 
     Năm 1913, ông ra làm báo, cộng tác với Đông Dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh. Năm 1921, ông làm chủ bút báo Hữu Thanh bị thất bại, lập tiếp Tản Đà thư cục, rồi An Nam tạp chí nhưng bị đình bản. Tản Đà vào miền Nam viết cho báo Thần Chung và Đông Pháp thời báo được một thời gia thì ông trở lại miền Bắc tái lập An Nam thời báo nhưng cũng thất bại. Ông phải dịch thơ Đường cho báo Ngày Nay và dịch Liêu trai chí dị và chú thích truyện Kiều cho nhà xuất bản Tân Dân. Ông cũng là người yêu nước nồng nàn, thể hiện tinh thần ấy khi thấy quốc gia bị tang tóc qua bài: “Vịnh bức dư đồ rách”:
 
             “Biết bao lúc trước công vườn vẽ
      Sao đến bây giờ rách tả tơi” 
 
Trong 25 năm làm báo và cảm tác thi phú, ông để lại:
 - Tiểu thuyết: Thề non nước. Giấc mộng lớn. Giấc mộng con...
 - Luận thuyết: Tản Đà tùng văn, Tản Đà Xuân sắc...
 - Dịch thuật: Liêu trai chí dị, Đại học, Đường thi...
 
 *- Thiết nghĩ: Những nàng tiên nhớ nhung da diết trong lòng Tản Đà, ông cố đeo đuổi thì bị hụt hẫng nhưng nàng thơ lại chung thuỷ với ông suốt đời. Sự sắt son của nàng thơ với Tản Đà đã đưa danh tiếng ông trở nên rực rỡ, năng lực sáng tác càng ngày càng dồi dào. Ông là một cây bút phóng khoáng, phong phú về mọi lãnh vực văn chương. Văn thơ ông lãng mạn nếu không muốn nói là ngông nghênh, với tâm tư đặc biệt. 
      Tản Đà là người hun đúc và thai nghén cho sự ra đời thơ mới trong nền văn học Việt Nam, ông đã dang tay kết hợp giữa nền văn học cổ điển với văn học hiện đại.
 
     Trong lĩnh vực thi ca, dòng thơ của Tản Đà mượt mà, có màu sắc riêng, đã vượt thời gian và không gian. Thơ cảm tác của ông đặc sắc, thơ dịch của ông càng sát nghĩa bản chính, càng uyển chuyển nhẹ nhàng. Thơ dịch của ông, thường là các bài thơ lục bát dịch từ thơ Đường; có thể là hay hơn các bản dịch khác, có những bài thơ dịch của ông còn hay hơn cả nguyên tác. Vì thơ dịch của ông sáng sủa, không bị gò bó, tâm hồn dịch giả có thể cũng rung cảm thật sự vào đó; nhà thơ Bùi Giáng trong cuốn “Đi vào cõi thơ”, đã phát biểu về thơ dịch của Tản Đà: “Vô tiền khoáng hậu”. 
     Bài “Hoàng Hạc Lâu” của Thôi Hiệu (khoảng năm 704-754) thời nhà Đường. Đương thời, Thôi Hiệu rất nổi tiếng, Hoàng Hạc Lâu được coi là một trong những bài thơ hay đời Đường. 
 
Nguyên tác: 
               “Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
        Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.
        Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
        Bạch vân thiên tải không du du.
        Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
        Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
        Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
        Yên ba giang thượng sử nhân sầu”.
  
Tản Đà dịch: 
                “Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
  Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
        Hạc vàng đi mất từ xưa
  Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
       Hán Dương sông tạnh cây bày
  Bãi xa Anh Vũ xanh dầy cỏ non
       Quê hương khuất bóng hoàng hôn
  Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai!”
  
     Thể thơ thất ngôn của thi sĩ Tản Đà, chiếm tỷ lệ cao nhất (58%: 106 bài) trong đấy có nhiều bài thơ là tuyệt bút cho hậu thế. Thơ thất ngôn là thể loại có tính quy phạm cao về niêm luật, đối, với số câu số chữ hạn chế, khó diễn đạt trọn vẹn, khó nói hết cảm xúc của thi nhân. Nhưng nhà thơ Tản Đà vẫn uyển chuyển dùng từ nhẹ nhàng, phóng khoáng đã làm say mê người đọc, như bài thơ “Ghẹo người vu vơ”:
  
“Đầu ai sao tóc rối lung tung? 
 Chắc hẳn vì chưng nỗi tưởng chồng?!”
  
       Những từ: lung tung, chắc hẳn là từ bình dị rất gần gũi với đời sống dân dã, dễ dàng thấm vào lòng người. Thơ Tản Đà có truyền cảm mạnh, khác với lối ước lệ, trừu tượng của thơ Đường trước đây, thơ ông đã gây cho người đọc đồng tình và vấn vương, xem câu thơ “Đề ảnh mỹ nhân” đã biểu lộ:
  
“Vẻ ngọc long lanh pha sắc nước
 Nhị non ngào ngạt lộn hương giời”
  
    Từ đấy, chúng ta thấy rằng: Văn thơ của Tản Đà, thật sự đã đóng góp rất phong phú cho nền thi ca Việt Nam.     
     Thơ trào lộng của Tản Đà, có phảng phất lối thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, nhưng thơ ông có vẻ tình tứ và nhẹ nhàng, không châm biếm táo bạo, đả kích mạnh mẽ như Hồ Xuân Hương, bài thơ “Chơi chùa Hương Tích” của ông là một ví dụ:
  
“Nước tuôn ngòi biếc trong trong vắt 
 Đá hỏm hang đen tối tối mò 
 Chốn ấy muốn chơi còn mỏi gối 
 Phàm trần chưa biết nhắn nhe cho”
  
     Có người cho rằng Tản Đà là người chỉ biết ăn chơi, đã lạc vào cõi mộng; ông hờ hững với quê hương! Thử hỏi một chiến sĩ cầm súng gươm xông xáo nơi chiến trận trừ giặc rất đáng phục, thì một văn thi sĩ dùng văn thơ của mình chống giặc bằng ngòi bút có được hoan hô không?! Ngoài bài thơ “Vịnh bức dư đồ rách”, bài thơ “Chơi trại hàng hoa” ông đã u uất khi thấy đồng bào cơ cực bởi thực dân Pháp đô hộ: 
  
“Ôi Lý, Trần, Lê đâu mất cả
Mà thấy hươu nai đủng đỉnh chơi?!”
  
Cảm bội: Tản Đà
  
Tản Đà, lưu luyến bóng hồng nhan!
Nhung nhớ người yêu, tình dở dang!
Cảm tác văn thơ, thanh thảng mộng
Phú thi nghiền ngẫm, gợi miên man!    
 
Nguyễn Lộc Yên 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cận Tết năm Thìn, Marianne Brown (Guardian Weekly) có bài “Vietnam’s parents want a dragon son.” Trời! Tưởng gì, chớ cả Tầu lẫn Ta ai mà không muốn có con trai tuổi Rồng. Nhâm Thìn, tất nhiên, lại càng bảnh dữ nữa. Nam nhâm nữ quí thì sang mà lị. Theo tuviso.com: “Tuổi Nhâm Thìn có nhiều hy vọng tốt đẹp về vấn đề tình duyên và tương lai về cuộc sống, có phần tốt đẹp về tình cảm và tài lộc, vào trung vận và hậu vận thì được nhiều tốt đẹp về hạnh phúc, công danh có phần lên cao.”
Một quan điểm lạc quan đang dấy lên trong hàng ngũ Lãnh đạo đảng CSVN khi bước vào năm 2024, nhưng thực tế tiềm ẩn những khó khăn chưa lường trước được...
Nếu Donald Trump giành lại được Nhà Trắng vào tháng 11, năm nay có thể đánh dấu một bước ngoặt đối với quyền lực của Mỹ. Cuối cùng, nỗi sợ hãi về tình trạng suy tàn đã khiến cho người Mỹ bận tâm kể từ thời thuộc địa sẽ được biện minh. Hầu hết người Mỹ tin rằng, Hoa Kỳ trong tình trạng suy tàn, Donald Trump tuyên bố rằng ông có thể “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”. Nhưng tiền đề của Trump đơn giản là sai, và các biện pháp trị liệu được ông đề xuất đặt ra mối đe dọa lớn nhất đối với nước Mỹ.
Đảng CSVN hay nói “Trí thức là “nguyên khí của quốc gia”, làm hưng thịnh đất nước, rạng rỡ dân tộc*; “Trí thức là vốn liếng quý báu của Dân tộc”; hay “Thanh niên là rường cột của nước nhà” , nhưng tại sao nhiều người vẫn ngại đứng vào hàng ngũ đảng? Lý do vì đảng chỉ muốn gom Trí thức và Thanh niên “vào chung một rọ để nắm tóc”...
Tây Bắc hay Tây Nguyên thì cũng chừng đó vấn đề thôi: đất đai, tôn giáo, chủng tộc… Cả ba đều bị nhũng nhiễu, lũng đoạn tới cùng, và bị áp chế dã man tàn bạo. Ở đâu giới quan chức cũng đều được dung dưỡng, bao che để tiếp tục lộng quyền (thay vì xét sử) nên bi kịch của Tây Nguyên (nói riêng) và Cao Nguyên (nói chung) e sẽ còn dài, nếu chế độ toàn trị hiện hành vẫn còn tồn tại...
Bữa rồi, nhà thơ Inra Sara tâm sự: “Non 30 năm sống đất Sài Gòn, tôi gặp vô số người được cho là thành công, thuộc nhiều ngành nghề, đủ lứa tuổi, thành phần. Lạ, nhìn sâu vào mắt họ, cứ ẩn hiện sự bất an, lo âu.” “Bất an” có lẽ không chỉ là tâm trạng của người Sài Gòn mà dường như là tâm cảm chung của toàn dân Việt – không phân biệt chủng tộc, giới tính hay giai cấp nào ráo trọi – nhất là những kẻ sắp từ giã cõi trần. Di Cảo của Chế Lan Viên và di bút (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của Nguyễn Khải, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, chỉ là những tác phẩm “cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).”
Tập Cận Bình tin rằng lịch sử đang dịch chuyển theo hướng có lợi cho mình. Trong chuyến thăm Vladimir Putin tại Matxcơva vào tháng 3 năm ngoái, nhà lãnh đạo Trung Quốc nói với Tổng thống Nga rằng “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Sau 20 năm chiêu dụ Kiều bào về giúp nước không thành công, đảng CSVN lại tung ta Dự án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” vào dịp Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024. Đây là lần thứ tư, từ khi có Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, một Quyết định nhằm mưu tìm đầu tư, hợp tác khoa học, kỹ thuật và tổ chức các Hội, Đoàn người Việt ở nước ngoài, đặt dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN được tung ra...
Khi số lượng di dân vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico tăng cao kỷ lục, câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại rơi vào tình trạng này, và Hoa Kỳ có thể học hỏi những gì từ cách các quốc gia khác ứng phó với các vấn đề an ninh biên giới và nhập cư. Chào đón công dân nước ngoài đến với đất nước của mình là một việc khá quan trọng để giúp cải thiện tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, nguồn cung ứng lao động và đa dạng văn hóa. Nhưng những di dân vào và ở lại Hoa Kỳ mà không có thị thực hoặc giấy tờ hợp lệ có thể gây ra nhiều vấn đề – cho chính bản thân họ và cho cả chính quyền địa phương bởi tình trạng quá tải không thể kịp thời giải quyết các trường hợp xin tị nạn tại tòa án nhập cư, hoặc cung cấp nơi ở tạm thời và các nhu cầu cơ bản khác. Mà tình trạng này hiện đang xảy ra ở rất nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.