Hôm nay,  

Lễ Giáng Sinh Dưới Nhãn Quan Của Người Nghiên Cứu Lịch Sử

10/12/200700:00:00(Xem: 9065)

Lễ Giáng Sinh là kỷ niệm ngày Đức Chúa Giêsu, Đấng sáng lập Kitô giáo, sinh ra ở nước Do Thái, cách nay 2007 năm. Đây là một biến cố trọng đại, không những có ảnh hưởng đến người Kitô hữu mà còn ảnh hưởng đến toàn thể nhân loại. Nhiều tác phẩm văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, v.v. trên thế giới đều lấy cảm hứng từ biến cố nầy. Ngày nay, không một dân tộc nào trên thế giới mà không biết đến ngày lễ Giáng Sinh. Lễ Giáng Sinh thường gọi là Lễ Noel là do chữ Emmanuel ở trong Kinh Thánh, nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta", gọi tắt là Nuel hay Noel. Người Mỹ gọi lễ nầy là Christmas.

Kinh Thánh là một pho sách cổ của người Do Thái gồm có 2 phần: Kinh Thánh Cựu Ước và Kinh Thánh Tân Ước.

-Kinh Thánh Cựu Ước (lời giao ước cũ) ghi chép lại các sự kiện liên quan đến tôn giáo, luật pháp, phong tục, văn hoá, lịch sử,v.v. của người Do Thái trước khi Đức Chúa Giêsu sinh ra.

-Kinh Thánh Tân Ước (lời giao ước mới) là sách ghi chép lại cuộc đời và những lời giảng dạy của Đức Chúa Giêsu (tức là những tư tửơng, giáo lý của Người).

Khi đọc Kinh Thánh, người ta thấy có nhiều sự kiện liên quan đến lịch sử Do Thái và lịch sử nhân loại, nhất là trong phần Cựu Ước. Nhưng mục đích của người viết Kih Thánh không phải để ghi chép lịch sử, cũng không nhằm trình bày và chứng minh các sự kiện liên quan đến khoa học, mà chính là nhằm mục đích đạo đức, tôn giáo: loan báo sự mạc khải của Thiên Chúa cho dân tộc Do Thái nói riêng, và cho nhân loại nói chung, về "ơn cứu chuộc con ngừơi" do chính Thiên Chúa thực hiện và các giới răn của Thiên Chúa buộc nhân loại phải tuân giữ (tức 10 giới răn).

Danh từ "mạc khải" gồm có hai chữ "mạc" và "khải" ghép lại. "Mạc" theo nghĩa chữ Hán là cái màn che, "Khải" là mở ra. Vậy "mạc khải" nghĩa là mở bức màn che ra để cho mọi người được biết những gì che dấu bên trong, tỏ cho biết những điều bí mật.

Người đầu tiên viết Kinh Thánh là Moise, tiếng Việt phiên âm là Mai Sen, Môi Sen, Môi Se,v.v.Ong là ngừơi đã được Thiên Chúa chọn để lãnh đạo cuộc đấu tranh với vua Pharaon, đưa dân Do Thái ra khỏi đất Ai Cập cách nay vào khoảng 3300 năm. Ong đã viết phần đầu của Kinh Thánh gọi là sách "Sáng Thế Ký". Theo các nhà thần học và kinh thánh học thì ông được Thiên Chúa soi sáng, mạc khải cho bíêt để viết ra phần nầy. Cũng có thể hiểu rằng những điều ông ghi chép đã được truyền từ đời nọ đến đời kia trong dân tộc Do Thái trứơc ông. Sau khi ông mất, có nhiều người tiếp tục viết Kinh Thánh cho đến ngày nước Do Thái bị xóa tên (khoảng năm 70 đến 80 thế kỷ thứ I sau Công nguyên). Phần đó gọi là Kinh Thánh Cựu Ước.

Phần Kinh Thánh gọi là Tân Ước (lời giao ước mới) do các học trò của Chúa Giêsu viết về cuộc đời và những lời giảng dạy của Người. Họ là những chứng nhân trực tiếp hoặc gián tiếp (được nghe bà Maria, Mẹ của Đức Chúa Giêsu kể lại). Bốn vị đó là Mathieu, Macco, Luca và Gioan (John). Ngoài ra còn có sách Tông Đồ Công Vụ (hoạt động của các Tông Đồ của Chúa Giêsu) do Paul (Phaolô) viết,  kể lại công cuộc truyền giáo của ông vào thế kỷ thứ I và sách "Khải Huyền" (hay Khải Thị) do Gioan viết.

Kinh Thánh Cựu Ước (lời giao ước cũ giữa Thiên Chúa và tổ tiên người Do Thái) có loan báo về một Đấng Cứu Thế, gọi là Đức Kitô, sẽ đến trong dân tộc Do Thái để thực hiện ơn cứu độ của Thiên Chúa đối với nhân loại sau khi tổ tông loài người là Adam và Eva phản bội lại Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng nên mình. Những lời tiên tri nói về cuộc đời của Đấng Cứu Thế do các tiên tri (ngôn sứ) đã được ghi chép trong Kinh Thánh Cựu Ước. Thời gian của Cựu Ước là thời gian mong đợi, trông chờ Đấng Cứu Thế đến. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa nói với nhân loại qua các tiên tri (ngôn sứ).

     Tân Ước là lời giao ước, lời hứa của Thiên Chúa đối với tổ tiên người Do Thái đã được  thực hiện: đó là sự giáng sinh của Đức Kitô. Trong T6an Ước, Thiên Chúa trực tiếp nói với nhân loại qua Đức Kitô, con của Ngài.

Cuộc đời của Đức Kitô trong Tân Ước đã diễn ra đúng như lời tiên tri trong Cựu Ước nói về Người. Do đó, Cựu Ước và Tân Ước có liên quan mật thiết với nhau. Cựu Ước là đi tìm và Tân Ứơc là gặp đựơc.

"Tiên tri" hay "Ngôn sứ" là những người lãnh đạo tinh thần, lãnh đạo tôn giáo của người Do Thái. Lúc đầu, dân tộc Do Thái khôgn có các vị lãnh đạo chính trị hay quân sự. Toàn dân chỉ theo một tôn giáo duy nhất, chỉ thờ Đấng Tạo Hoá duy nhất, người Do Thái gọi Đấng đó là Gia Vê hay Giê-Hô-Va, nghĩa là Đấng Toàn Năng (tức Thượng Đế hay Thiên Chúa). Thiên Chúa đã chọn những vị tiên tri hay ngôn sứ và qua những vị ấy, để truyền dạy cho dân riêng của Ngài (tức dân Do Thái). Thiên Chúa đã ban cho các vị ấy được quyền làm những việc lạ lùng để dân chúng tin. Người tiên tri đầu tiên là Mai Sen. Những người kế vị sẽ được chọn theo ý của Thiên Chúa và do vị tiên tri tiền nhiệm truyền đạt lại. Tiên tri chọn một vi tứơng để chỉ huy quân đội, bảo vệ dân khi có chiến tranh. Về sau, người Do Thái đòi hỏi phải có một vị vua như các dân tộc khác nên tiên tri thay mặt Thiên Chúa để chọn vua cho dân: như trường hợp tiên tri Samuel chọn  Saule làm vua Do Thái, sau đó lại chọn David thay Saule. Từ David trở về sau thì cha truyền con nối: như David truyền ngôi cho con là Salomon. Vua lo việc chính trị, tiên tri lo việc tôn giáo.

Theo các sách tiên tri được ghi lại trong Kinh Thanh Cựu Ứơc thì Đức Kitô sẽ sinh ra bởi một trinh nữ thuộc dòng vua David. Người sẽ ra đời trong cảnh nghèo hèn. Người sẽ sinh ra ở Bêlem là một tỉnh nhỏ của nứơc Do Thái. Người sẽ đi rao giảng Tin Mừng về "ơn cứu độ". Để chứng minh Người là con Thiên Chúa uy quyền, Người sẽ làm nhiều phép lạ cho kẻ điếc được nghe, kẻ mù được thấy, kẻ câm đuợc nói, ngừơi tàn tật, người đau ốm được lành, kẻ chết được sống lại,v.v. Người sẽ bị bắt, bị nhục hình, chết và sống lại…DDó là tóm tắt những điều Kinh Thánh đã nói về Người.

Qua Kinh Thánh Cựu Ước, chúng ta biết được dân tộc Do Thái bắt nguồn từ tổ phụ của họ là Abraham, cách nay chừng 4000 năm.

Abraham sinh ra Isaac bởi vợ chính thức là Sara.

Ngoài Isaac, Abraham cũng có nhiều con trai với các nàng hầu, những người nầy không được xem là "chính thống" vì không phải là con "bởi lời giao ước" nghĩa là Đấng Cứu Thế sẽ không sinh ra bởi dòng dõi của những người nầy.

Isaac có 2 người con trai sinh đôi là Esau và Jacob. Esau không xứng đáng nên Jacob đuợc làm trưởng nam và Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra bởi dòng dõi Jacob.

Trong một giấc mơ huyền bí, Jacob đã được đổi tên là Israel. Ong có 12 người con trai, sau nầy con cháu của họ lập thành 12 tỉnh của nứoc Do Thái.

Nước Do Thái (hay là nước Israel) là do tên của Jacob (tức Israel) tổ tiên của họ.

Người con thứ 11 của ông Israel là Giuse (Joseph) bị anh em bán cho thương nhân Ai Cập, về sau đã trở thành tể tứơng của nứoc nầy. Sau trận đói xảy ra cho toàn vùng, anh em của ông đã di cư vào Ai Cập.

Giuse là người đã có công cứu dân Ai Cập khỏi nạn mất mùa, đói khát kéo dài 7 năm liền. Sau khi Giuse chết, người Ai Cập đã vong ân, bắt con cháu của ông làm nô lệ cho họ.

Thiên Chúa đã chọn Mai Sen làm lãnh tu dân Do Thái, đứng ra đấu tranh với vua Pharaon, để đem dân Do Thái ra khỏi Ai Cập và về miền đất hứa Canaan là nơi  Thiên Chúa đã hứa cho tổ tiên họ là Abraham.

Họ đã đi qua biển đỏ (Hồng Hải) và trải qua đoạn đừơng dài 40 năm, qua sa mạc…và phải chiến đấu với nhiều dân tộc khác mới đến được đất hứa.

Những ngừơi sinh bởi dòng máu của Jacob tức Israel đã trở thành dân tộc Do Thái.

Những con cháu Abraham nhưng không bởi dòng máu Jacob, đã trở thành các dân tộc lân cận với nước Do Thái và thù nghịch với Do Thái. Từ Abraham đến ngày     nay khoảng 4000 năm.

Từ Mai Sen đến ngày nay khoảng từ 3300 đến 3500 năm.

Cách nay khoảng 3000 năm, Do Thái đã trở nên ccừơng thịnh dứơi triều đại của David. Ông là một anh hùng dân tộc, giải phóng xâm lăng. Ông cũng  là một thi sĩ, nhạc sĩ, một nhà đạo đức và là một tiên tri. Ong đã để lại nhiều lời tiên đoán về cuộc đời của Đấng Cứu Thế, nhất là về cuộc khổ nạn của Người. Ong đựơc sử sách gọi là "tiên tri", "thánh vương", v.v.

Con của David là Salomon, được gọi là "người khôn ngoan nhất thiên hạ vào thời đó" đã làm cho Do Thái trở nên cường thịnh nhất trong vùng, nhờ sự khôn ngoan, thông thái và tài lãnh đạo. Trong đời ông không có chiến tranh xảy ra.

Sau Salomon thì nứơc Do Thái dần dần suy yếu và bị các dân tộc lân cận xâm lấn.

Khoảng 587 trước công nguyên, quân Babylon chiếm nước Do Thái và bắt dân Do Thái đem về Babylon làm nô lệ cho họ. Sử gọi là "Thời kỳ lưu đày Babylon" kéo dài 49 năm.

Trước thời kỳ bị lưu đày, trong dân tộc Do Thái xuất hiện nhiều tiên tri, kêu gọi dân chúng phải ăn năn, hối cải, từ bỏ thói hư nết xấu để trở về đời sống đạo đ1ưc. Nếu không, họ sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt.

Trong thời kỳ bị lưu đày tại Babylon, lời kêu gọi dân ăn năn hối cải lại càng thống thiết hơn, và dân Do Thái càng mong đợi Đấng Cứu Thế đến…

Theo họ, Đấng Cứu Thế được nói đến trong Kinh Thánh sẽ là một lãnh tụ chính trị, quân sự để đánh đuổi xâm lăng, cứu dân tộc mình thoát vòng nô lệ và tái lập đế qúôc Do Thái như thời David và Salomon. Nhưng theo lời tiên tri của David và các tiên tri khác sau David, thì Đấng Cứu Thế là Con Thiên Chúa, Người sẽ sinh ra trong cảnh nghèo hèn, và Người sẽ chịu khổ hình để cứu chuộc tội lỗi cho nhân loại, để nhân loại khỏi bị phạt và được trở nên con của Thiên Chúa, được hưởng phứơc thiên đàng vĩnh cửu.

Khoảng 539 trứơc công nguyên, một biến cố lịch sử đã xảy ra, vua nứơc Ba Tư là Kyrô thắng đế qúôc Babylon. Người Do Thái bị lưu đày được trở về quê hương của mình.

Khoảng 533 trứơc công nguyên, Alexandre đại đế đã làm cho nước Hy Lạp cừơng thịnh. Quân Hy Lạp chiếm được cả Au Châu và tràn sang tận Ấn  Độ. Do Thái nằm trong vùng đất thuộc đế qúôc Hy Lạp.  Sau khi Alexandre chết, đế qúôc HY Lạp dần dần suy tàn. Đế qúôc La Mã mạnh lên và đánh thắng Hy Lạp.

Trứơc khi kéo quân vào Do Thái, La Mã kêu gọi Do Thái liên minh với họ để chống lại Hy Lạp. Sau khi thắng Hy Lạp rồi, La Mã đem quân chiếm đ1ong Jerusalem và cai trị Do Thái vào năm 63 trứơc Chúa Giêsu giáng sinh.

Đức Chúa Giêsu giáng sinh trong hoàn cảnh dân tộc Do Thái đang sống dứơi chế độ nô lệ của đế qúôc La Mã. Theo Kinh Thánh thì Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra tại một tỉnh nhỏ là Bê Lem. Nhưng đã đến ngày sinh rồi mà bà Maria, mẹ Đức Chúa Giêsu vẫn còn ở tại nazaret, cách Bê Lem chừng vài trăm cây số. Một biến cố  đã xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri: hoàng đế La Mã là Augustus Ceasare ra lệnh kiểm tra dân số. Mọi người phải trở về nguyên quán để khai tên vào sổ hộ tịch. Thế là ông Giuse phải đem bà Maria đang mang thai, lên đừơng trở về Bê Lem, là nơi sinh quán của mình. Đức Chúa Giêsu đã sinh ra tại Bê Lem đ1ung như các tiên tri đã ghi chép. Những di tích về thời đại Đức Chúa Giêsu hiện nay vẫn còn được bảo vệ.

Các nhà sử học và khảo cổ học đã minh xác về Đ1ưc Chúa Giêsu là một nhân vật có thật trong lịch sử nhân loại. Các chứng tích như : hang đá Bê Lem, nơi Người sinh ra, ngôi nhà Ngừoi ở tại Nazaret, dinh quan Tổng trấn Ponce Pilastre nơi Ngừơi bị xét xử, những giọt máu ở cầu thang (hiện nay ngừơi ta dùng những tấm kính úp lên trên để bảo vệ), ngôi mộ, thập giá khổ hình, khăn liệm có in mặt của Ngừơi (hiện để ở thành Turin), đồi Calvario, nơi Người chịu chết, núi Olivete, nơi Người lên trời trứơc mặt các môn đệ và dân chúng (hiện còn dấu chân in sâu vào đá)…cũng như lời Người giảng dạy, tư tưởngvà giáo l1y của Ngừơi. Những bản Kinh Thánh cổ được viết trên da bằng tiếng Aram (Do Thái), tiếng Hy Lạp và La tinh (La Mã),vv.v. hiện còn lưu giữ ccho đến ngày nay…Ông Daniel Rops, thuộc Hàn Lâm Viện Pháp, đã nghiên cứu và công bố nhiều điều xác minh về cuộc đời Đức Chúa Giêsu . Ngoài ra còn có hàng ngàn nhà nghiên cứu khác thuộc các giáo hội: Công Giáo, Tin Lành, Chính Thống,v.v. hoặc thuộc các huynh hướng tự do khác ngoàigiáo hội, cũng đã xác nhận những điều được nhắc đến trong Kinh Thánh về Đức Chúa Giêsu là đúng.

Ngày sinh và năm sinh của Đức Chúa Giêsu đã được thế giới chọn làm niên lịch mới gọi là lịch công nguyên (ère chrétienne) hay là Dương lịch, lấy năm Ngừơi sinh ra làm năm thứ nhất, đến nay đã 2007 năm.

Kitô giáo là do những người Do Thái, học trò của Đức Chúa Giêsu, trứoc hết truyền bá cho chính người Do Thái, sau đó mới truyền  sang các dân tộc khác…Nhưng có một số người Do Thái ngày nay vẫn còn trông đợi Đấng Cứu Thế như tổ tiên của họ trong thời Cựu Ước. Những người nầy chỉ thừa nhận Kinh Thánh Cựu Ước mà không tin vào Tân Ước.

Đối diện với Jerusalem có một ngọn n1ui nhỏ tên là Sion, nơi đó có ngôi mộ của David, từ 3000 năm nay. Người Do Thái xem đó là nơi linh thiêng của họ. Trên ngôi mộ này, từ xưa tới nay có một ngọn lửa hằng cháy sáng mãi. Danh từ Sionit hoặc "chủ nghĩa sionit" là do chữ Sion mà ra, có nghĩa là Do Thái muốn trở lại thời đại huy hoàng của David và Salomon. Họ cứ nghĩ rằng Đấng Cứu Thế là một lãnh tụ chính tr5i kiểu David hay Salomon. Họ suy nghĩ theo tinh thần thế tục chứ không theo tinh thần siêu nhiên của tôn giáo. Do đó, họ vẫn chờ đợi và chưa gặp được Đấng Cứu Thế đích thực.

Đêm Giáng Sinh còn được gọi là "Đêm Hoà Bình", đêm mà thiên thần ca hát:

"Vinh danh Thiên Chúa trên trời;

Bình an dứơi thế cho người thiện tâm"

Ngày xưa ở Việt Nam, dù trong thời chiến tranh, hai bên đều đề nghị "hưu chiến" trong đêm Giáng Sinh. Đêm Noel là đêm vui mừng cho cả nhân loại, không phân biệt tôn giáo, dân tộc hay thành phần xã hội. Mọi gia đình đều vui mừng vì đây là ngày vui của mọi người từ trẻ em cho đến ngừơi lớn: nào cây thông, ông già Noel, những món quà, những cánh thiệp, những lời chúc tụng tốt đẹp dành cho nhau, tiệc tùng, ca hát, v.v. Riêng người Kitô hữu thì đến nhà thờ dự Thánh Lễ, kỷ niệm Chúa Giáng Sinh…Những ngừơi khác cũng đi chơi, đi xem cho biết lễ nghi phong tục, hoà mình vào niềm vui chung của "đêm hòa bình".

Chúng tôi xin kính chúc qúy vị một đêm Noel trong hoà bình, yêu thương….trong tình yêu của Thiên Chúa đến với nhân loại. Ngừoi đã đến trong nghèo khó, trần truồng, rét lạnh, từ chối tất cả những tiện nghi sang trọng, giàu có của thế gian. Chúng ta đến với Chúa, tức là đến với tình yêu và hoà bình chân thật, thì cũng phải bỏ lại tất cả những đam mê vật chất, những dục vọng đê hèn của trần thế và chỉ có tâm hồn trong sạch, thiện chí, mới gặp được Người. 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nelson Mandela (1918-2013), quán quân Giải Nobel Hòa Bình năm 1993, nhà hoạt động chống chế độ phân biệt chủng tộc bị tù 27 năm, và là vị tổng thống người da đen đầu tiên được bầu trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên của nước Nam Phi vào năm 1994, đã từng nói rằng, “Giáo dục là vũ khí có sức mạnh nhất mà bạn có thể sử dụng để thay đổi thế giới.” Hơn ai hết, Nelson Mandela là người không những hiểu rõ giá trị thực sự của nền giáo dục mà còn áp dụng kiến thức đó trong việc làm thay đổi đất nước và dân tộc Nam Phi của ông. Ông đã dẫn dắt Nam Phi từ một quốc gia ngập chìm trong bóng tối của thù hận, phân hóa và lạc hậu để vươn mình lên trong ánh sáng của đoàn kết, hòa bình và phát triển.
Hoa Kỳ đã tấn công Iran. Chỉ vài ngày sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump gợi ý rằng có thể trì hoãn bất kỳ hành động quân sự nào của Mỹ trong nhiều tuần, ông tuyên bố vào ngày 21/6 rằng máy bay Mỹ đã tấn công ba địa điểm hạt nhân của Iran, bao gồm cả cơ sở bị chôn sâu ở Fordow. Các quan chức Iran xác nhận rằng các cuộc không kích đã diễn ra. Mặc dù ông Trump khẳng định rằng các địa điểm này đã bị "xóa sổ", nhưng vẫn chưa rõ các cuộc tấn công đã gây ra thiệt hại gì.
Jena, Louisiana – một thị trấn 4.000 dân lọt thỏm giữa rừng thông – nơi bảng hiệu đầu làng ca ngợi đội bóng nữ vô địch của bang, nhưng cách đó chỉ ba dặm, sau hàng rào kẽm gai và lời Kinh Thánh treo lủng lẳng, là Trại Giam ICE đồ sộ - do GEO Group điều hành. Nơi đây hiện giam giữ hơn 1000 người – phần lớn chưa từng bị kết tội hình sự, nhiều người chỉ là dân đang xin tị nạn hợp pháp, số còn lại chưa kịp hiểu vì sao mình bị bắt...
Tại sao Trump lại vội vàng ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và chính sách mới như vậy?AI: Có hai lý do.Đầu tiên, tổng thống vội vàng vì nếu có bất kỳ điều gì sai trái xảy ra vào đầu nhiệm kỳ, ông có thể đổ lỗi cho chính quyền trước và nhà nước (những người làm việc cho ông). Nếu để lâu, những điều sai trái sẽ là trách nhiệm của ông, và Trump không thích chịu trách nhiệm.Thứ hai, ông biết trong hai năm nữa, đảng Cộng hòa sẽ mất quyền kiểm soát Hạ viện trong cuộc bầu cử quốc hội và ông sẽ trở thành què quặt. Ông cần phải hoàn thành mọi việc ngay bây giờ. Ông muốn tập trung vào các doanh nghiệp của mình trong hai năm cuối nhiệm kỳ tổng thống,
Bao dung – một từ nghe thật thanh thoát. Âm tiết của nó cũng thật bình dị, thốt ra từ thanh quản nhẹ nhàng không cần uốn nắn, như cỏ mọc từ đất, như mưa từ trời. Vậy mà ngày nay, trong một xã hội đứng đầu thế giới về tự do, về quyền con người, hai từ “bao dung” bỗng dưng khó tìm. Chính trong tháng Sáu này, tháng gọi là Pride Month, những câu chuyện thương tâm về cộng đồng LGBTQ+ bị chìm trong bóng tối. Có lẽ trong sáu tháng qua, nước Mỹ có quá nhiều những phát ngôn, biến cố, thay đổi mà đối với truyền thông, đó là điều cần phải nói, và nói mỗi ngày. Hoặc cũng có lẽ, trong một chính quyền đang nỗ lực bác bỏ DEI, đóng chặt cửa với di dân, thì truyền thông cũng không dám đào sâu về những gì thuộc về cộng đồng yếu thế. Cho dù, đó là một án mạng lấy đi cuộc sống một con người, hoặc chấm dứt những nguyên tắc vốn đã được nhìn nhận hàng thập kỷ.
“Nơi nào người ta bắt đầu đốt sách, nơi đó người ta rồi cũng sẽ thiêu người.”— Heinrich Heine. Câu nói nổi tiếng từ thế kỷ XIX của thi sĩ Heinrich Heine, tưởng chỉ là tiếng vọng u ám của bóng ma lịch sử nhưng hôm nay, giữa thế kỷ XXI, lời cảnh báo ấy lại trở nên rúng động – ngay trên đất nước từng được xem là ngọn hải đăng của tự do học thuật. Oái oăm thay, những dấu hiệu đầu tiên của bóng tối không phát xuất từ một chế độ độc tài phương Đông, mà từ chính nước Mỹ – xứ sở từng được xem là ngọn hải đăng của giáo dục tự do.
Donald Trump không đội vương miện, nhưng ông đã luyện được cách bắt cả một đảng chính trị quỳ gối. Và cũng như các ông vua cổ đại, ông không cần luật – ông chính là luật. Nếu Toà Tối cao chống đối, ông sẽ gọi đó là “phản quốc.” Nếu truyền thông phản biện, ông gọi đó là “tin giả.” Nếu có cuộc bầu cử mà ông thua, ông sẽ bảo đó là “gian lận.” Và nếu có ai dám nói điều gì khác, ông sẽ gửi quân đội tới – như ông đã làm ở Los Angeles, để dạy cho đám biểu tình “hỗn xược” ấy một bài học về dân chủ... bằng đạn cao su và lựu đạn cay.
Ryanne Mena là một nhà báo đưa tin về tội phạm và an toàn công cộng cho Southern California News Group. Thứ Sáu, 6/6, ngày đầu tiên diễn ra cuộc biểu tình phản đối chính sách nhập cư của chính quyền Trump, chống lại các cuộc bố ráp của Cảnh Sát Di Trú (ICE), Mena đã có mặt ngay trên đường phố Los Angeles, bên ngoài Trung tâm giam giữ Metropolitan,L.A. Tại đây, cô bị trúng đạn hơi cay ở đùi bên trái Ngày kế tiếp, nữ phóng viên này bị trúng đạn cao su của các đặc vụ liên bang bắn vào đầu, bên phải, cách tai của cô chỉ khoảng 1 inch. Những tấm ảnh Mena và các đồng nghiệp khác bị thương lan tỏa khắp Instagram, Twitter.
Giữa lúc Tòa Bạch Ốc đang tìm mọi cách cứu vớt mối quan hệ Trump-Musk thì các cựu quan chức an ninh y tế cho biết chính quyền Trump hủy bỏ $766 triệu trong các hợp đồng nghiên cứu phát triển vaccine mRNA để chống lại các loại đại dịch cúm. Với họ, đây là đòn giáng mới nhất vào quốc phòng quốc gia. Họ cảnh báo rằng Hoa Kỳ có thể phải nhờ đến lòng trắc ẩn của các quốc gia khác trong đại dịch tiếp theo. ABC News dẫn lời Beth Cameron, cố vấn cao cấp của Trung tâm Đại dịch thuộc Brown University Pandemic Center, và là cựu giám đốc Hội đồng an ninh quốc gia Tòa Bạch Ốc, cho biết: “Các hành động của chính quyền đang làm suy yếu khả năng phòng ngừa của chúng ta đối với các mối đe dọa sinh học. Việc hủy bỏ khoản đầu tư này là một tín hiệu cho thấy chúng ta đang thay đổi lập trường về công tác chuẩn bị ứng phó với đại dịch. Và điều đó không tốt cho người dân Mỹ.”
Ăn mặc đẹp là nói về thời trang. Lịch sử “thời trang cao cấp” thuộc về truyền thống của Pháp: Haute couture từ thế kỷ 17. Đến thế kỷ 19, ngành thời trang cao cấp đã phát triển thành một phương tiện kích thích tăng trưởng trong nền kinh tế Pháp. Trong thời gian này, các nhà tạo mốt như Dior, Chanel và Balenciaga đã được thành lập. Tuy nhiên, vào thế kỷ 20, ngành thời trang cao cấp ở Pháp đã mất đi phần lớn sự huyền bí của mình và phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ các thị trường quốc tế khác, đặc biệt là ở Ý và Hoa Kỳ. Sự thành công của bối cảnh thời trang quốc tế và tiềm năng lợi nhuận đã thu hút sự chú ý của các tập đoàn hàng xa xỉ, được tiên phong bởi ông trùm kinh doanh người Pháp và người sáng lập LVMH Bernard Arnault vào năm 1987. Ngày nay, các tập đoàn này vẫn tiếp tục duy trì hoạt động lịch sử của các nhà thời trang xa xỉ thông qua việc bổ nhiệm các giám đốc sáng tạo, những người diễn giải và chỉ đạo triết lý thiết kế của thương hiệu.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.