HONGKONG (VB) — Sau đây là một bài bình luận được đưa ra trên báo “Asia Wall Street Journal” ở Hongkong trên ấn bản Thứ Hai, cùng ngày với bài báo của bác sĩ Nguyễn Đan Quế kêu gọi xóa lằn ranh Quốc-Cộng và tố cáo bọn giáo điều CSVN cũng như người chống Cộng cực đoan không muốn ký thương ước Mỹ-Việt.
Bài bình luận chính thức của ban biên tập Asian Wall Street Journal có một lập luận có vẻ như chống lại quan điểm của BS Quế, cho rằng hiệp ước thương mãi Mỹ Việt dù có được ký kết cũng không làm thay đổi tình hình kinh tế Việt nam gì nhiều trong cấp thời, mà trước mắt sẽ chỉ cứu các công ty quốc doanh CSVN bởi vì mở lớn thị trường Hoa Kỳ cho họ, và như vậy sẽ giảm áp lực cải tổ kinh tế cho CSVN.
Bài báo này được dịch toàn văn ra Việt Ngữ như sau:
Những hồ hởi phấn khởi chung quanh cuộc viếng thăm Hà nội của bà Madeleine Albright tuần nầy và việc ký kết thỏa ước thương mại Việt-Mỹ là một điều có thể hiểu được, vì đó là một bi kịch lịch sử của hai quốc gia từng là thù địch của nhau. Tuy nhiên, buồn thay việc bình thường hóa các bang giao thương mại sẽ chỉ có một ít ảnh hưởng tức thời đối với nền kinh tế trì trệ của Việt nam. Bởi vì những kẻ có lợi nhứt trong việc tăng gia buôn bán với Hoa kỳ là những xí nghiệp quốc doanh đang lỗ nặng, vì thỏa hiệp đó có thể làm chậm lại việc cải tổ khu vực công cộng đang như đông lạnh.
Tuy nhiên, bản thỏa hiệp được chính phủ Clinton và chính phủ Việt nam ca ngợi như là một bước tiến quan trọng trong bang giao giữa hai nước. Vì trong khi Hoa kỳ và Việt nam tiến tới gần việc ký kết chừng nào thì sự chỉ trích của những vi phạm nhân quyền của Hà nội càng lớn hơn lên, và đó là một điều đúng. Các tù nhân lương tâm, trong đó có cả ký giả, thi sĩ, nhà tôn giáo còn hàng trăm người. Và những nhân quyền căn bản của con người, như tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tôn giáo thường xuyên bị phủ nhận.
Như là BS Quế, một bác sĩ y khoa, đã ở tù gần 20 năm trong các ngục tù Cộng sản vì những niềm tin của ông về dân chủ, đã viết: “Quyền lực vẫn tập trung trong tay bộ Chính trị ở Hà nội và dân chúng không được ai giúp đở gì để chống lại. Cái kết quả đương nhiên của sự độc quyền toàn trị đó là dân chúng và đất nước phải chịu nghèo khổ”.
Chúng tôi [báo Asian Wall Street Journal] thành thật hy vọng rằng một thương ước cởi mở với Hoa kỳ sẽ giúp làm nhẹ bớt các khổ đau của dân tộc Việt nam và bẻ gãy cái vùng cấm địa của đảng cộng sản đã có trên nền kinh tế trong vòng 25 năm qua. Nhưng vì Hà nội đã chứng tỏ rằng họ có thể chống lại mọi sự cải tổ có ý nghĩa, chúng tôi đâm ra nghi ngờ. Bà Albright và những đại diện khác của chính phủ Clinton phải làm tất cả những gì trong quyền lực của họ để xem thử Chính phủ Việt nam, có tôn trọng hiệp ước mà họ đã ký kết hay không.
Và nếu như mọi việc đều trôi chảy như dự định, thì thương ước đó sẽ mở đường cho Hoa thịnh đốn cấp cho Hà nội quy chế Bang giao thương mại bình thường, trước đây được gọi là Quy chế Tối huệ quốc. Điều đó sẽ cho phép hàng hóa Việt nam nhập vào nước Mỹ với một giá biểu quan thuế thấp như cấp cho phần lớn các quốc gia khác. Thương ước cũng hạ thấp giá biểu quan thuế của Việt nam và buộc Hà nội phải cam kết một số biện pháp phải mở cửa thị trường của họ cho hàng hóa Hoa kỳ, các dịch vụ và đầu tư.
Trong dĩ vãng, những lời nói của các nhân vật chính thức Việt nam không thể tin được và không có những bảo đảm nào rằng chính phủ (Hà nội) sẽ tôn trọng tới cùng cuộc mặc cả hiện nay. Và cũng không có gì đáng kinh ngạc nếu thấy các nhân viên chính phủ hạ giá biểu xuống, nhưng lại tạo ra những trở ngại cho việc nhập cảng, ví dụ như thuế tiêu thụ hay các thủ tục xin giấy phép mới. Chắc chắn là các nhà lãnh đạo của Việt nam sẽ thụt lùi lại hay hoãn lại mọi sự cải tổ quan trọng được hứa hẹn trước khi có cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chánh ở Á châu hồi tháng 7 năm 1997.
Kết quả là một sự ra đi ồ ạt của sự đầu tư trực tiếp của ngoại quốc, từ một con số đã thấp 1 tỷ đô la của năm 1998 xuống còm 300 triệu của năm 1999. Mệt mỏi vì những sự hứa hẹn gian dối, dù đối với những công ty đã giảm bớt các hoạt động của mình xuống, chỉ còn một đại diện ở lại, nhiều công ty cũng cuốn gói ra đi về nước.
Than nhũng, luôn luôn là một vấn đề của nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam, nơi mà người ngoại quốc muốn tìm một đối tác địa phương cho một doanh nghiệp liên hiệp, đã tiến tới một mức độ bịnh hoạn. Mỗi một người ngoại quốc nào ở Việt nam cũng muốn tìm một công ty quốc doanh sạch sẽ, nhưng theo lời ông Robert Templer, một cựu thông tin viên và tác giả của cuốn sách “Shadow và Wind”, một cuốn sách về Việt nam hiện đại, thì chẳng có ai tìm được một công ty nào sạch sẽ hết.
Trong khi chúng ta (Hoa kỳ) dành ưu tiên cho việc buôn bán tự do và cởi mở, thì có nhiều lý do để nghi ngờ rằng việc bình thường hóa thương mại với Hoa kỳ có thể giúp cho các xí nghiệp ngoại quốc tìm thấy được những đối tác có thể tin tưởng được ở Việt nam. Trên thực tế, vì những công ty quốc doanh sẽ hưởng nhiều lợi thế trong việc xuất cảng qua Hoa kỳ, bản hiệp ước thương mại có thể làm giảm bớt các áp lực kinh tế để buộc họ phải cải tổ. Tăng cường quyền lực của khu vực quốc doanh không phải là việc để làm cho họ phải thay đổi.
Bài bình luận chính thức của ban biên tập Asian Wall Street Journal có một lập luận có vẻ như chống lại quan điểm của BS Quế, cho rằng hiệp ước thương mãi Mỹ Việt dù có được ký kết cũng không làm thay đổi tình hình kinh tế Việt nam gì nhiều trong cấp thời, mà trước mắt sẽ chỉ cứu các công ty quốc doanh CSVN bởi vì mở lớn thị trường Hoa Kỳ cho họ, và như vậy sẽ giảm áp lực cải tổ kinh tế cho CSVN.
Bài báo này được dịch toàn văn ra Việt Ngữ như sau:
Những hồ hởi phấn khởi chung quanh cuộc viếng thăm Hà nội của bà Madeleine Albright tuần nầy và việc ký kết thỏa ước thương mại Việt-Mỹ là một điều có thể hiểu được, vì đó là một bi kịch lịch sử của hai quốc gia từng là thù địch của nhau. Tuy nhiên, buồn thay việc bình thường hóa các bang giao thương mại sẽ chỉ có một ít ảnh hưởng tức thời đối với nền kinh tế trì trệ của Việt nam. Bởi vì những kẻ có lợi nhứt trong việc tăng gia buôn bán với Hoa kỳ là những xí nghiệp quốc doanh đang lỗ nặng, vì thỏa hiệp đó có thể làm chậm lại việc cải tổ khu vực công cộng đang như đông lạnh.
Tuy nhiên, bản thỏa hiệp được chính phủ Clinton và chính phủ Việt nam ca ngợi như là một bước tiến quan trọng trong bang giao giữa hai nước. Vì trong khi Hoa kỳ và Việt nam tiến tới gần việc ký kết chừng nào thì sự chỉ trích của những vi phạm nhân quyền của Hà nội càng lớn hơn lên, và đó là một điều đúng. Các tù nhân lương tâm, trong đó có cả ký giả, thi sĩ, nhà tôn giáo còn hàng trăm người. Và những nhân quyền căn bản của con người, như tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tôn giáo thường xuyên bị phủ nhận.
Như là BS Quế, một bác sĩ y khoa, đã ở tù gần 20 năm trong các ngục tù Cộng sản vì những niềm tin của ông về dân chủ, đã viết: “Quyền lực vẫn tập trung trong tay bộ Chính trị ở Hà nội và dân chúng không được ai giúp đở gì để chống lại. Cái kết quả đương nhiên của sự độc quyền toàn trị đó là dân chúng và đất nước phải chịu nghèo khổ”.
Chúng tôi [báo Asian Wall Street Journal] thành thật hy vọng rằng một thương ước cởi mở với Hoa kỳ sẽ giúp làm nhẹ bớt các khổ đau của dân tộc Việt nam và bẻ gãy cái vùng cấm địa của đảng cộng sản đã có trên nền kinh tế trong vòng 25 năm qua. Nhưng vì Hà nội đã chứng tỏ rằng họ có thể chống lại mọi sự cải tổ có ý nghĩa, chúng tôi đâm ra nghi ngờ. Bà Albright và những đại diện khác của chính phủ Clinton phải làm tất cả những gì trong quyền lực của họ để xem thử Chính phủ Việt nam, có tôn trọng hiệp ước mà họ đã ký kết hay không.
Và nếu như mọi việc đều trôi chảy như dự định, thì thương ước đó sẽ mở đường cho Hoa thịnh đốn cấp cho Hà nội quy chế Bang giao thương mại bình thường, trước đây được gọi là Quy chế Tối huệ quốc. Điều đó sẽ cho phép hàng hóa Việt nam nhập vào nước Mỹ với một giá biểu quan thuế thấp như cấp cho phần lớn các quốc gia khác. Thương ước cũng hạ thấp giá biểu quan thuế của Việt nam và buộc Hà nội phải cam kết một số biện pháp phải mở cửa thị trường của họ cho hàng hóa Hoa kỳ, các dịch vụ và đầu tư.
Trong dĩ vãng, những lời nói của các nhân vật chính thức Việt nam không thể tin được và không có những bảo đảm nào rằng chính phủ (Hà nội) sẽ tôn trọng tới cùng cuộc mặc cả hiện nay. Và cũng không có gì đáng kinh ngạc nếu thấy các nhân viên chính phủ hạ giá biểu xuống, nhưng lại tạo ra những trở ngại cho việc nhập cảng, ví dụ như thuế tiêu thụ hay các thủ tục xin giấy phép mới. Chắc chắn là các nhà lãnh đạo của Việt nam sẽ thụt lùi lại hay hoãn lại mọi sự cải tổ quan trọng được hứa hẹn trước khi có cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chánh ở Á châu hồi tháng 7 năm 1997.
Kết quả là một sự ra đi ồ ạt của sự đầu tư trực tiếp của ngoại quốc, từ một con số đã thấp 1 tỷ đô la của năm 1998 xuống còm 300 triệu của năm 1999. Mệt mỏi vì những sự hứa hẹn gian dối, dù đối với những công ty đã giảm bớt các hoạt động của mình xuống, chỉ còn một đại diện ở lại, nhiều công ty cũng cuốn gói ra đi về nước.
Than nhũng, luôn luôn là một vấn đề của nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam, nơi mà người ngoại quốc muốn tìm một đối tác địa phương cho một doanh nghiệp liên hiệp, đã tiến tới một mức độ bịnh hoạn. Mỗi một người ngoại quốc nào ở Việt nam cũng muốn tìm một công ty quốc doanh sạch sẽ, nhưng theo lời ông Robert Templer, một cựu thông tin viên và tác giả của cuốn sách “Shadow và Wind”, một cuốn sách về Việt nam hiện đại, thì chẳng có ai tìm được một công ty nào sạch sẽ hết.
Trong khi chúng ta (Hoa kỳ) dành ưu tiên cho việc buôn bán tự do và cởi mở, thì có nhiều lý do để nghi ngờ rằng việc bình thường hóa thương mại với Hoa kỳ có thể giúp cho các xí nghiệp ngoại quốc tìm thấy được những đối tác có thể tin tưởng được ở Việt nam. Trên thực tế, vì những công ty quốc doanh sẽ hưởng nhiều lợi thế trong việc xuất cảng qua Hoa kỳ, bản hiệp ước thương mại có thể làm giảm bớt các áp lực kinh tế để buộc họ phải cải tổ. Tăng cường quyền lực của khu vực quốc doanh không phải là việc để làm cho họ phải thay đổi.
Gửi ý kiến của bạn