Hôm nay,  

Ngày Chiến Sĩ Trận Vong Nghĩ Đến Người Chinh Phụ

22/05/202000:00:00(Xem: 3018)

NGAY CHIEN SI TRAN VONG 02
Ngày Lễ Chiến Sĩ Trận Vong Ở Hoa Kỳ. (nguồn: www.sofrep.com )

“Cũng có kẻ mắc vào khóa lính,

Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,

Nước khe cơm ống gian nan,

Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.

Buổi chiến trận mạng người như rác,

Phận đã đành đạn lạc tên rơi.

Lập lòe ngọn lửa ma trơi,

Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.”

 

Đó là đoạn văn tế các chiến sĩ trong “Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh” của thi hào Nguyễn Du. Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh của thi hào Nguyễn Du thường được đọc trong ngày Rằm Tháng Bảy với lễ chẩn tế thập loại cô hồn được tổ chức trong các Chùa trùng với Lễ Vu Lan.

Tại Hoa Kỳ, Ngày Lễ Chiến Sĩ Trận Vong (Memorial Day) năm nay 2020 nhằm vào Thứ Hai, 25 tháng 5. Đây là ngày lễ liên bang tại Hoa Kỳ được tổ chức vào Thứ Hai thuộc tuần lễ cuối của tháng 5 hàng năm. Ngày Lễ Chiến Sĩ Trận Vong để vinh danh và tưởng niệm các quân nhân Hoa Kỳ đã nằm xuống ngoài chiến trận.

Các chiến sĩ là những người hy sinh đời trai trẻ của họ để đi theo tiếng gọi lên đường bảo vệ tổ quốc quê hương hay bảo vệ chính nghĩa tự do và hòa bình trên thế giới. Các chiến sĩ có người đã lập gia đình có người còn độc thân. Những quân nhân độc thân khi ra sa trường thì có cha mẹ và anh chị em ở nhà thương tưởng chờ mong ngày về. Còn những chiến sĩ đã có gia đình khi ra chiến trường giết giặc thì có vợ con ở nhà trông ngóng đợi chờ.

Những người vợ của các chinh phu được gọi là những chinh phụ. Những chinh phu nơi chiến trận phải đối diện với bao hiểm nguy tai họa của đạn lạc tên rơi và sự sống chết của họ mỏng manh như ‘chỉ mành treo chuông’. Nhưng, những người chinh phụ ở nhà thì phải gánh chịu muôn vàn khổ lụy đè nặng lên đôi vai gầy yếu của người phụ nữ, từ trách nhiệm thay chồng lo cho gia đình và con cái đến nỗi đau vò xé tâm can khi mòn mỏi chờ mong ngày chinh phu trở về.

Hơn ai hết, người phụ nữ Việt Nam là những người thâm cảm sâu sắc nỗi đau của người chinh phụ, vì đất nước Việt Nam hầu như thời nào cũng có chiến tranh và những hệ quả của chiến cuộc. Trong chiến tranh, những chinh phụ đau đớn vì chồng còn nơi chiến trận không biết sống chết ra sao. Sau chiến tranh, như sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, những chinh phụ khổ sở vì chồng bị đẩy vào lao tù khổ sai của chế độ cộng sản. Những chinh phụ thời kỳ sau 1975 tại Miền Nam không những mất mát về tình cảm mà còn gánh chịu muôn vàn khốn khổ về vật chất.

Trong nền văn học Việt Nam, thân phận và tâm trạng của người chinh phụ đã được mô tả một cách thấm thía, mà nổi tiếng nhất là trong tác phẩm “Chinh Phụ Ngâm” do thi sĩ Đặng Trần Côn viết bằng Hán văn và nhiều bản dịch chữ Nôm được thực hiện bởi nhiều nhà thơ, trong đó bản dịch chữ Nôm của nữ thi sĩ Đoàn Thị Điểm là một tuyệt tác được lưu truyền rộng rãi nhất.
 
Về Chinh Phụ Ngâm
 
Theo Bách Khoa Từ Điển Mở Tiếng Việt, Chinh Phụ Ngâm có nhiều bản dịch bằng chữ Nôm theo thể thơ lục bát và song thất lục bát gồm các bản dịch của Đoàn Thị Điểm, Phay Huy Ích, Nguyễn Khản, v.v... Bản dịch phổ biến nhất xưa nay theo thể song thất lục bát, dài 412 câu, có tên Chinh Phụ Ngâm Khúc Diễn Ca, được cho là của nữ thi sĩ Đoàn Thị Điểm (1705-1749), hay có người cho là của Phan Huy Ích (1751-1822), với tên Chinh Phụ Ngâm Diễn Ca Tân Khúc.

NGAY CHIEN SI TRAN VONG 01
Hình minh họa Chinh Phụ Ngâm. (nguồn: www.theki.vn )

Nguyên tác Hán văn của Chinh Phụ Ngâm Khúc do thi sĩ Đặng Trần Côn sáng tác. Theo tài liệu được đăng trên trang mạng www.thanhxuan.gov.vnwww.vanhien.vn, thì năm sinh của Đặng Trần Côn vẫn chưa được xác định. Các tài liệu chỉ dựa vào những nhân vật mà ông có giao tiếp cùng thời như Ngô Thời Sỹ (1726-1780) và Đoàn Thị Điểm để phỏng đoán ông sinh vào khoảng 1707 và mất vào khoảng 1745, trước ở Hải Hưng sau về Hà Nội. Trong khi bà Đoàn Thị Điểm sinh vào năm 1705 và mất vào năm 1749, tại làng Giai Phạm, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

Các tác phẩm của Đặng Trần Côn đều bằng chữ Hán, Ngoài Chinh phụ ngâm khúc, còn nhiều tác phẩm như: Phủ Chưởng Tân Thư, Yêu Hưởng Thưởng Xuân Thiếp, Lãn Trai Di Thảo, Hạ Nguyễn Quý Hầu Cập Đệ Gia Môn Vinh Thịnh Tự và Đề Tiêu Tương Bát Cảnh Đồ Thi Thảo...

Bà Đoàn Thị Điểm, ngoài bản dịch Nôm của Chinh Phụ Ngâm còn viết tập Truyền Kỳ Tân Phả (chữ Hán), Nữ Trung Tùng Phận gồm 1401 câu thơ và bài Bộ Bộ Thiềm Thu Từ. Ngoài ra còn có một số bài thơ văn khác của bà (gồm chữ Hán, chữ Nôm) được chép trong tập Hồng Hà Phu Nhân Di Văn của tiến sĩ Nguyễn Kiều mới được phát hiện gần đây, theo Bách Khoa Từ Điển Mở Tiếng Việt.

Tương truyền rằng bà Đoàn Thị Điểm là một giai nhân tuyệt sắc lúc bấy giờ nên có rất nhiều đấng mày râu đến dạm hỏi xin cưới, nhưng bà chưa để ý đến ai. Trong lúc đó, Đặng Trần Côn là học trò của thân phụ của bà Điểm là cụ Đoàn Doãn Nghi. Côn nhỏ hơn bà Điểm hai tuổi lại đem lòng yêu thích bà, nên có lần đã đến dạm hỏi xin cưới bà. Bà Đoàn Thị Điểm sau đó đã nói với người quen rằng Đặng Trần Côn miệng còn hôi sữa, làm thơ còn chưa nên mà bày đặt chuyện vợ chồng.

Gã họ Đặng nghe vậy thì chạm lòng tự ái nên quyết chí rèn mài kinh sử và luyện thơ. Ông đã dốc chí bình sinh để viết Chinh Phụ Ngâm bằng Hán văn. Khi viết xong Chinh Phụ Ngâm, Đặng Trần Côn đưa cho Ngô Thời Sỹ đọc và được khen là văn tài kiệt xuất. Đặng Trần Côn cũng có đưa cho bà Điểm xem nhưng bà lúc đó chưa dịch liền.

Trong bài “Đặng Trần Côn - Nhân vật lịch sử nổi tiếng thời vua Lê – chúa Trịnh” đăng trong trang web www.vanhien.vn cho biết bà Đoàn Thị Điểm đến năm 1742 lúc đó bà đã 37 tuổi mới lấy chồng, chồng bà là Tiến sỹ Nguyễn Kiều, nổi tiếng hay chữ, nhưng đã góa vợ mới lấy Đoàn Thị Điểm. Nhưng vừa cưới bà Đoàn Thị Điểm xong thì Tiến sỹ Nguyễn Kiều theo lệnh của chúa Trịnh Doanh (1720 – 1767) và vua Lê Hiển Tông (1716 - 1786) lên đường sang Trung Quốc đi sứ nhà Thanh. Chuyến đi sứ này đã mất 3 năm Nguyễn Kiều mới về nước.

Có lẽ trong thời gian đó, tức là từ năm 1742 – 1745, Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn đã được sáng tác. Trong đó Đặng Trần Côn dùng nhân vật là  một phụ nữ có chồng đi xa bày tỏ tâm trạng nhớ thương chồng và mô tả tình cảnh đơn độc của mình. Điều này phù hợp với hoàn cảnh của bà Đoàn Thị Điểm nên bà đã dịch Chinh Phụ Ngâm từ chữ Hán ra chữ Nôm. Nhiều người khen bản dịch Nôm của Đoàn Thị Điểm còn hay hơn bản Hán của Đặng Trần Côn. Điều đó cũng dễ hiểu, bởi vì theo lẽ tự nhiên đọc bản chữ Nôm là đọc tiếng mẹ đẻ nên dễ cảm nhận được chữ nghĩa và tâm tình của tác phẩm hơn bản Hán. Tất nhiên, yếu tố chính vẫn là tự bản thân của bản dịch Nôm vốn đã hay từ lời tới ý thì người đọc mới cảm nhận được cái hay của nó.
 
Nỗi lòng người chinh phụ
 
Tình cảm mặn nồng của vợ chồng luôn luôn buộc chặt họ vào nhau như hình với bóng. Một khi vì hoàn cảnh bất đắc dĩ nào đó mà phải xa nhau thì bên nào cũng đau đớn nhớ nhung và mong chờ gặp lại.

Chinh Phụ Ngâm bắt đầu bằng việc người chồng nhận lệnh vua phải ra trận chiến đấu chống quân thù.
 
“Chín lần gươm báu trao tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.”
 
Và rồi:
 
“Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành liền mong tiến bệ rồng,
Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời.”
 
Tình cảnh tử biệt sanh ly là nỗi đau da diếc nhất của đời người, đặc biệt là người chinh phụ khi tiễn đấng chinh phu lên đường.
 
“Ngòi đầu cầu nước trong như lọc,
Đường bên cầu cỏ mọc còn non.
Đưa chàng lòng dặc dặc buồn,
Bộ khôn bằng ngựa thủy khôn bằng thuyền.
Nước trong chảy lòng phiền chẳng rửa
Cỏ xanh thơm dạ nhớ khó quên
Nhủ rồi tay lại trao liền
Bước đi một bước lại vin áo chàng.”
 
Kẻ đi thì đi không đành và người tiễn thì cũng không muốn rời người yêu, nên cứ níu áo lần lựa không buông. Sợi dây tình ái vô hình vô tướng mà trói con người chặt đến không bứt ra nổi. Bởi vậy nhà thơ Nguyễn Công Trứ mới than “Cái tình là cái chi chi?”
 
“Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy.
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chành ý thiếp ai sầu hơn ai?”
 
Nhưng nỗi sầu lúc chia tay mới chỉ là khởi đầu của đoạn đường cô quạnh đau đớn đứt ruột dài thăm thẳm tiếp theo đó và có khi là cả đời người.
Đến đây, Chinh Phụ Ngâm mô tả bằng độc thoại tâm trạng của người chinh phụ nghĩ đến đấng lang quân đang xông pha nơi chiến trường xa xôi nào đó.
 
“Chàng từ đi vào nơi gió cát,
Đêm trăng này nghỉ mắt phương nao?
Xưa nay chiến địa dường bao,
Nội không muôn dặm xiết sao dãi dầu.
Hơi gió lạnh người rầu mặt dạn,
Dòng nước sâu ngựa nản chân bon.
Ôm yên gối trống đã chồn.
Nằm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh.”
 
Nghĩ đến cảnh kẻ ở người đi trong lúc tình yêu còn bén lửa để cho ngày tháng chờ đợi nhạt phai hương sắc, người chinh phụ đau đớn thốt lên.
 
“Trang phong lưu đang chừng niên thiếu,
Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên.
Nỡ nào đôi lứa thiếu niên,
Quan san để cách hàn huyên cho đành!
Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu,
Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca.
Nay quyên đã giục oanh già,
Ỷ nhi lại gáy trước nhà líu lo.”
 
Rồi ngày ngày ra trước sân để chờ ngóng tin chàng:
 
“Tin thường lại, người không thấy lại,
Gốc hoa tàn đã trải rêu xanh.
Rêu xanh mấy lớp chung quanh,
Sân đi một bước, trăm tình ngẩn ngơ.”
 
Nhưng chờ mãi mà không thấy bóng dáng chinh phu ở đâu. Người chinh phụ ngày càng nhớ thương bi lụy. Chinh Phụ Ngâm mô tả một cách tài tình và truyền cảm không thể tả tâm trạng sầu chất ngất của người chinh phụ cô đơn lẻ loi trong những lời độc thoại đau đớn nghe ra như xé nát tâm can. Trong hiện thực biết là không thể tìm gặp được chinh phu, người chinh phụ tìm chàng trong mộng.
 
“Nếm chua cay tấm lòng mới tỏ,
Chua cay này, há có vì ai?
Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi,
Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề.
Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng,
Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn.
Duy còn hồn mộng được gần,
Đêm đêm thường đến Giang Tân tìm người.”
 
Mộng dù dài thì có lúc cũng phải tỉnh để thấy rằng, “Tình trong giấc mộng, muôn vàn cũng không!” Khi tỉnh ra chinh phụ thấy chỉ có một tấm lòng son sắc với đấng lang quân là trường cữu. Và nàng nguyền giữ lấy tấm lòng đó cho đến khi chàng trở về. Lúc đó thì:
 
“Xin vì chàng xếp bào cởi giáp,
Xin vì chàng giũ lớp phong sương.
Vì chàng tay chuốc chén vàng,
Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng.
Giở khăn lệ, chàng trông từng tấm,
Đọc thơ sầu, chàng thấm từng câu.
Câu vui đối với câu sầu,
Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời.
Sẽ rót vơi lần lần từng chén,
Sẽ ca dần ren rén đòi liên.
Liên ngâm đối ẩm đòi phen,
Cùng chàng lại kết mối duyên đến già.”
 
Một kết cuộc có hậu. Dù thực tế chinh phu và chinh phụ vẫn chưa đoàn tụ, nhưng Chinh Phụ Ngâm đã mở được cái thắt gút buộc chặt tâm tình của chinh phụ trong bóng tối thê lương bi lụy nhất của đời người phụ nữ khi thương nhớ chồng ở phương xa mà không biết làm cách nào để gặp được. Nhờ thế, chinh phụ sẽ sống những ngày đợi chờ chinh phu trong tâm trạng lạc quan hy vọng.

Trong truyền thuyết dân gian Việt Nam cũng nói đến câu chuyện người phụ nữ bồng con đứng chờ đợi người chồng đi đánh giặt nơi biên cương mịt mù lâu quá mà hóa đá, nên có Hòn Vọng Phu.

NGAY CHIEN SI TRAN VONG 03

Nhạc sĩ Lê Thương và nhạc phẩm Hòn Vọng Phu.(nguồn: www.langmai.org )


Nhạc sĩ Lê Thương (1914-1996) có nhạc phẩm Hòn Vọng Phu nổi tiếng trên 70 năm qua, vì ông sáng tác bài đó vào khoảng từ năm 1943 đến 1947, theo Bách Khoa Từ Điển Mở Tiếng Việt. Bản nhạc Hồn Vọng Phu, gồm 3 phần (Đoàn Người Ra Đi, Ai Xuôn Vạn Lý và Người Chinh Phu Về) của Lê Thương dường như ít có người Việt nào ở độ tuổi trên 50 mà không biết.
 
“…Qua Thiên San kìa ai tiễn rượu vừa tàn,
Vui ca xang rồi đi tiến binh ngoài ngàn.
Người đi ngoài vạn lý quang sơn,
Người đứng chờ trong bóng cô đơn.
Bên Man Khê còn tung gió bụi mịt mùng,
Bên Tiêu Tương còn thương tiếc nơi ngàn trùng.
Người không rời khỏi kiếp gian nan,
Người biến thành tượng đá ôm con…”

Ý kiến bạn đọc
25/05/202023:55:18
Khách
Mich Long tui "lựng bàn" chút xíu về văn thơ cổ :
"Chín LẦN gươm báu trao tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh” (trích)
- "Cửu trùng" tiếng Hán Việt có nghĩa là chín lần, chín tầng, chín bậc. Là lối nói tượng trưng chỉ ông vua, đang ngự trên ngai vàng, vì ngôi vua được xây trên chín bậc thang.
- Tuy nhiên khi dịch sang tiếng nôm mà dịch theo kiểu...thẳng băng thành "chín LẦN" nghe ra dường như ý nghĩa của nó có vẻ hoàn toàn...trật lất.
- Nếu dịch như vậy chẳng khác gì cho rằng vị chinh phu này đã có tới...chín lần trong một đêm được nhận gươm báu của nhà vua trao cho ông ta để đi đánh giặc.
- Trong khi thật tế, theo câu thơ dịch, thì ông này được cái người ngồi trên chín bệ, tức là nhà vua giao cho gươm báu để "nửa đêm truyền hịch" đi đánh giặc liền, tức trong hai câu thơ này, ổng chỉ được có...một lần vua giao cho cái vụ "định ngày xuất chinh".
- Hai sự việc này hoàn toàn khác xa nhau. Sao lại có thể dịch là ông tướng quân này có...tới chín lần được trao gươm đi đánh trận cho được? Hahaha coi bộ thời này chắc loạn lạc dữ à nha...
- Ngày xưa nếu nhớ không lầm, tui có học qua câu này từng được dịch là:
"Chín TẦNG gươm báu trao tay
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh”
- Từ "chín TẦNG" trên ngai, tức nhà vua trao gươm cho tướng quân đi đánh trận, nghe nó hợp lý hơn "chín LẦN" chứ, phải không ta?
- Có lẽ tác giả đã trích dẫn sai từ một bản dịch không chính xác?
- Ngoài ra nếu tra theo hai câu thơ từ Hán Việt bản gốc thì ý nghĩa của nó còn...trật lất hơn nữa, đó là:
"Cửu trùng án kiếm khởi đương tịch
Bán dạ phi hịch truyền tướng quân"
- Tạm dịch, trong khi nhà vua đang "ăn nhậu" với cung phi mỹ nữ, bỗng nghe hung tin giặc kéo quân đến đánh, cho nên "ông dzua" mới:
"Vua liền chống kiếm đứng lên
Nửa đêm phát hịch, lệnh truyền tướng quân"
- Tức là mặc dù đang lúc nửa đêm, tổng thống ổng vẫn sai quân sĩ mang "công văn khẩn cấp" bảo đại tướng tổng tham mưu trưởng quân đội phải lập tức đến trình diện gấp để cùng tổng thống bàn phương mà đối phó. Chứ ổng chưa có giao gươm giao kiếm gì ráo cho cái ông đại tướng này để mà...định ngày xuất chinh.
- Nhưng khi dịch sang tiếng nôm thành ra là:
"Chín TẦNG gươm báu trao tay
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh”
- Ta nghe tình tiết hai câu thơ có phải rất là nhịp nhàng, sướng tai, êm đềm, lưu loát?
- Hahaha tui bàn như vậy có hợp lẽ không quý vị?
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong hàng đệ tử của Đức Phật, có một vị tăng hình dung xấu xí, lùn thấp, không chút nào hảo tướng, nên người mới gặp tự nhiên khó tôn kính. Đó là Trưởng lão Bhaddiya. Cũng chính vì nhận ra nhiều vị tăng đã khởi tâm bất kính khi thấy nhà sư lùn thấp Bhaddiya, Đức Phật đã nói lên hai bài kệ làm giựt mình đại chúng, rằng chính nhà sư Bhaddiya đã giết cha, giết mẹ, giết vua, giết cả triều đình… Bài này sẽ nhìn về cách Đức Phật nói lên các ẩn dụ như thế. Để rồi dẫn tới ý nghĩa về hạnh sống một mình. Các sai sót có thể có, người viết xin được sám hối.
Bước vào rừng, khách thơ sẽ thấy thân nhiệt hạ xuống ngay lập tức. Cái nóng rát bỏng trên da không còn nữa. Và mùi hương rừng thoang thoảng vây quanh. Rừng có hương thơm sao? Có chứ! Bạn chẳng từng nghe nhà văn Sơn Nam với tập truyện nổi tiếng “Hương Rừng Cà Mau” đó sao. A! Có thể mùi cây tràm cây đước chỉ là mùi hương tượng trưng, nghiêng về tinh thần hơn là vật chất, nhưng ở đây, New Jersey, hương rừng có thể được nhận thức bằng khứu giác.
Thời văn học miền Nam trước năm 1975 đã chứng kiến mối lương duyên thơ văn thành đôi phối ngẫu Trần Dạ Từ-Trần Thy Nhã Ca bền chặt cho đến nay đã trên 60 năm. Đôi tình nhân hình như đến với nhau với thi ca (và báo-chí) xe duyên và cả hai đã có những bài thơ tình đi vào văn học sử. Nhà thơ Nhã Ca sau này kể lại chuyện lần đầu gặp nhằm ngày Mùng Một Tết năm 1958 trong “Hồi Ký Một Người Mất Ngày Tháng (Thương Yêu, 1991): "Buổi trưa. Bao nhiêu người qua đường, biết ai là anh. Run quá. Coi tề, cái người nhìn mình một cái rồi quay đi, bước nhanh hơn. Anh? Anh vậy há? Mỏng như tờ giấy. Còn mặt mũi? Kịp thấy chi mô. Mới nghĩ chắc anh đó, mắt con bé đã hoa lên rồi. Nhát”. Gặp người thật sau những trao đổi thư từ: “Những lá thư xuôi ngược cả năm Sàigòn-Huế-Sàigòn. Những bài thơ tình đầu. Anh ngồi đó ốm nhom…”. Hôm sau, khi đến gặp từ giã anh ở khách sạn đã thấy trên bàn có bài thơ “Thủa Làm Thơ Yêu Em”, ký tên Trần Dạ Từ - bài sẽ đăng trên Sáng Tạo số Xuân Kỷ Hợi 1959.
Một cõi mênh mông các cảnh giới. Cũng là một chiếc kén bé nhỏ gói bí ẩn về giấc mơ một ngày kia sẽ tung ra muôn trùng tơ quấn quít hiện thực. Một khung cửa khép với chờ đợi, với cô lẻ số phận. Một bầu trời cao rộng với những đường bay mạnh mẽ hoan lạc của cánh chim tự do. Một mặt biển bị xao động bởi những con sóng ngầm làm ngạc nhiên thinh lặng của vực sâu. Là cánh cửa được mở tung bởi ngôn ngữ như những tiếng gõ dồn dập. Là bức tường bức phá bởi sức mạnh của ý tưởng. Là con đường hiểm hóc hay mượt cỏ, những bước chân vẫn đi tới đi tới. Ở đó bạn nghe được khát vọng tìm hạnh phúc chân thực như trở về cội nguồn tâm sâu thẳm. Ở đó bạn sẽ thấy cảm xúc mình bung ra như sắc mầu của chiếc kính vạn hoa. Ở đó, những con chữ như nam châm hút cảm xúc người đọc. Ở đó, từ trường say đắm thơ mộng của Đinh Thị Như Thúy, Phạm Thị Ngọc Liên, Nguyễn Thùy Song Thanh, Vũ Quỳnh Hương.
Có những điều chúng ta chưa biết, chưa chắc chắn ở tương lai và đời sau, nhưng nguyên lý nhân-quả là lẽ tự nhiên, tất định, không thể sai khác; ai cũng có thể suy nghiệm, hiểu biết và tin vào. Vì vậy, khi một người chỉ tâm tâm niệm niệm tránh xa các điều ác, tận tụy làm những điều lành, sẽ nắm chắc hạnh phúc an vui trong hiện tại, trong tương lai gần, tương lai xa, mà không cần phải tìm hiểu cảnh giới nào sẽ chờ đón mình.
Cuộc chiến tranh của Ukraine và Nga gợi trong tôi nhiều suy nghĩ. Khi người Ukraine bị mất đảo Rắn vào tay Nga, tôi nghĩ đến Trường Sa. Tôi lo sợ cho người Ukraine bị một nước láng giềng khổng lồ xâm lăng như tôi lo sợ cho người Việt trước hiểm họa Trung quốc. Cả triệu người Ukraine đi tị nạn ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tôi cảm thông với họ vì tôi cũng từng là người tị nạn. Tôi xót xa cho họ bị tước đoạt ngôn ngữ vì tôi là người bị mất ngôn ngữ Việt khi lưu lạc ở xứ người. Đi ngược dòng lịch sử, tôi “tìm ra” Gogol là nhà văn Nga gốc Ukraine. Tôi dùng chữ “tìm ra” là để nhấn mạnh sự thiếu sót “ai cũng biết chỉ có mình không biết” của tôi. Nghe tên Gogol đã lâu, tôi biết ông là nhà văn Nga, nổi tiếng với “Dead Souls - Những Linh Hồn Chết” và “The Overcoat – Chiếc Áo Khoác” nhưng tôi chưa đọc và cũng không để ý đến nguồn gốc Ukraine của ông. Như thế nào là người của một quốc gia nhưng có nguồn gốc của một nước khác?
Đỗ Gia- một gia đình thân hữu lâu đời với nhà văn Doãn Quốc Sỹ - đã thực hiện audio book và bắt đầu đưa lên youtube, để người Việt khắp nơi trên thế giới có thể nghe đọc một số tác phẩm tiêu biểu của nhà văn lão thành này.
Đối mặt với viễn cảnh phải điều quân đi tham chiến dưới lòng đất, tổng thống Nga Vladimir Putin đã khá là dè dặt. “Không cần phải chui nhủi trong mấy hầm mộ hoặc lây lất bò xuống lòng đất.” Ông nói với Bộ trưởng Quốc phòng khi ra lệnh hủy bỏ kế hoạch tấn công nhà máy thép ở thành phố cảng Mariupol của Ukraine vào ngày 21 tháng 4 năm 2022. Dù có kế hoạch dự phòng không kém phần tàn bạo là vây nhốt các lực lượng Ukraine và chờ đợi, hoặc cũng có thể tiến hành những cuộc tấn công trên mặt đất trong khu vực, sự do dự của Putin trong việc điều động quân lính tiến vào một mạng lưới rộng lớn của các đường hầm dưới lòng đất cho thấy một điều: Đường hầm có thể là công cụ hiệu quả trong chiến tranh.
Tôi không lo rằng tác phẩm nghệ thuật thực sự có giá trị sẽ bị hủy hoại. Các tác phẩm văn học có thể trường tồn một phần là vì chúng đủ sức nặng để được đọc và ngẫm trước những thăng trầm của hiện tại. Lập luận này có thể được đưa ra với bất kỳ tác phẩm vĩ đại nào trong văn học Nga, nhưng với tư cách là học giả chuyên nghiên cứu về các tác phẩm của Leo Tolstoy và Fyodor Dostoevsky, tôi sẽ nói về những tác phẩm văn học nổi tiếng nhất của họ.
Thực hành đạo lý từ bi giác ngộ, người con Phật nếu im lặng không lên án tham-sân-si thì cũng không cổ võ ủng hộ lòng tham, hận thù và vọng tưởng độc tài, độc tôn; không lên án chiến tranh, chiếm đoạt thì cũng không ca tụng ngợi khen sự khích động chiến tranh, giết người, tổn hại sinh mệnh và tài sản của kẻ khác.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.