Hôm nay,  

Cuộc Chiến Nga-Ukraine: Lịch Sử Lâu Đời Và Lợi Ích Của Các Đường Hầm Trong Chiến Tranh

06/05/202200:00:00(Xem: 6109)

Picture1

Sự do dự của Putin trong việc điều quân lính tiến vào một mạng lưới rộng lớn của các đường hầm dưới lòng đất ở Mariupol cho thấy một điều: Đường hầm có thể là công cụ hiệu quả trong chiến tranh. Hình: Bản khắc của người Assyria mô tả cuộc bao vây một thành phố Ai Cập (Bảo tàng Anh, CC BY-SA)

 

Sự do dự của Putin trong việc điều quân lính tiến vào một mạng lưới rộng lớn của các đường hầm dưới lòng đất ở Mariupol cho thấy một điều: Đường hầm có thể là công cụ hiệu quả trong chiến tranh. Hình: Bản khắc của người Assyria mô tả cuộc bao vây một thành phố Ai Cập (Bảo tàng Anh, CC BY-SA)
 
Đối mặt với viễn cảnh phải điều quân đi tham chiến dưới lòng đất, tổng thống Nga Vladimir Putin đã khá là dè dặt. “Không cần phải chui nhủi trong mấy hầm mộ hoặc lây lất bò xuống lòng đất.” Ông nói với Bộ trưởng Quốc phòng khi ra lệnh hủy bỏ kế hoạch tấn công nhà máy thép ở thành phố cảng Mariupol của Ukraine vào ngày 21 tháng 4 năm 2022.

Dù có kế hoạch dự phòng không kém phần tàn bạo là vây nhốt các lực lượng Ukraine và chờ đợi, hoặc cũng có thể tiến hành những cuộc tấn công trên mặt đất trong khu vực, sự do dự của Putin trong việc điều động quân lính tiến vào một mạng lưới rộng lớn của các đường hầm dưới lòng đất cho thấy một điều: Đường hầm có thể là công cụ hiệu quả trong chiến tranh.

Thật vậy, kể từ khi cuộc chiến bắt đầu vào tháng 2 năm 2022, các báo cáo đã xuất hiện về việc quân trú phòng Ukraine sử dụng mạng lưới đường hầm dưới lòng đất trong nỗ lực ngăn chặn quân xâm lược Nga kiểm soát các thành phố lớn, cũng như làm nơi trú ẩn cho dân thường.

Theo Giáo sư Paul J. Springer, việc sử dụng các đường hầm như một chiến thuật phòng thủ và tấn công là một chiến lược đúng đắn. Các mạng lưới đường hầm cho phép các đơn vị nhỏ di chuyển mà không bị phát hiện từ trên không, và xuất hiện ở những vị trí bất ngờ để tấn công rồi cũng bất ngờ biến mất. Nếu không có bản đồ chi tiết tường tận về các lối đi dưới lòng đất, quân xâm lược có thể đối mặt với những cơn ác mộng, bị đánh lúc nào không hay, tổn thất quân lính, tinh thần sa sút và không thể hoàn thành việc mục tiêu… Những nỗi lo sợ đó có thể đã khiến Putin quyết định không điều quân tiến vào các đường hầm dưới lòng đất ở Mariupol.

Lịch sử xa xưa của đào hầm trong quân sự

Việc sử dụng các đường hầm và các hầm ngầm trong thời kỳ xung đột không có gì mới lạ.

Các đường hầm đã là một phần phổ biến của chiến tranh trong nhiều thiên niên kỷ. Từ thời cổ đại, các lực lượng quân lính đã biết đào đường hầm để có thể tấn công, làm suy yếu các vị trí công sự được phòng thủ tốt. Điều này đặt ra vấn đề cho các kỹ sư xây dựng khắc phục: họ sẽ xây các đoạn móng tường sâu và dài, hoặc đặt các chướng ngại vật khác dưới móng tường. Đánh sập đường hầm sẽ làm suy yếu phòng thủ. Và nếu đúng lúc, cuộc tấn công theo ngay sau đó có thể giúp đánh hạ công sự của đối phương, nắm chắc phần thắng.

Một trong những ví dụ lâu đời nhất của kỹ thuật này được mô tả trên các tác phẩm chạm khắc của người Assyria, có tuổi đời hàng nghìn năm. Trong khi bên trên có một số kẻ tấn công leo thang để xông qua tường thành, thì bên dưới, những kẻ khác đang đào móng các bức tường.
 
Quân đội La Mã có các kỹ thuật công trình phức tạp, như xây dựng các đường hầm có mái vòm. Quân phòng thủ La Mã cũng hoàn thiện nghệ thuật đào đường hầm phản công, để đánh chặn những đường hầm bị tấn công, ngăn ngừa các mối đe dọa. Khi thâm nhập vào một đường hầm của kẻ thù, họ làm ngập nó bằng loại khói có chất xút để đánh đuổi kẻ thù, hoặc tấn công bất ngờ.

Picture2
Đường hầm

Thành quả của việc đào hầm phòng thủ đã khiến các kỹ sư châu Âu thời Trung cổ thiết kế ra các cách để ngăn chặn chiến thuật. Họ xây lâu đài trên nền móng bằng đá, làm cho mọi nỗ lực đào bới sẽ chậm hơn nhiều; không chỉ vậy, bao quanh các bức tường là những con hào để các đường hầm cần phải đào sâu hơn.

Đào hầm là một khía cạnh quan trọng của các cuộc vây hãm trong suốt thế kỷ 13, nhưng cuối cùng nó đã bị thay thế bởi sự ra đời của pháo thuốc súng - một cách hiệu quả hơn để chọc thủng các công sự.

Tuy nhiên, vào giữa thế kỷ 19, những tiến bộ trong khai thác mỏ và xây dựng đường hầm đã dẫn đến sự trỗi dậy trong các phương pháp tiếp cận chiến tranh dưới lòng đất.

Trong Cuộc chiến Krym vào những năm 1850, phe tấn công của quân Anh và Pháp đã cố gắng đào hầm dưới các công sự của Nga trong trận Sevastopol. Mười năm sau, Ulysses S. Grant cho phép đào đường hầm bên dưới lực lượng phòng thủ của Quân miền Nam tại cuộc bao vây của Petersburg, Virginia. Trong cả hai trường hợp, các kho thuốc súng lớn được đặt trong các khoang ngầm dưới lòng đất ở các vị trí trọng yếu, và được kích nổ để phối hợp với cuộc tấn công của bộ binh bên trên.

Đào hầm trong thời đại không quân

Thế kỷ 20, khi mà chiến tranh ngày càng phụ thuộc vào máy bay, các nhà chiến lược quân sự lại chuyển sang sử dụng các đường hầm, vì chúng không thể bị phát hiện từ trên không, và tránh được bom.

Trong Thế chiến I, đào hầm là cách để phát động các cuộc tấn công bất ngờ vào Mặt trận phía Tây, có khả năng vượt qua hệ thống chiến hào của phía bên kia và không bị các quan sát viên trên không phát hiện. Đặc biệt, Ypres nổi bật ở Bỉ bị tàn phá bởi chiến tranh là địa điểm của hàng trăm đường hầm do các thợ mỏ của Anh và Đức đào, và những câu chuyện kinh hoàng về cuộc chiến dưới lòng đất cung cấp một trong những nét vẽ đáng sợ nhất của cuộc chiến khủng khiếp đó.

Trong Thế chiến II, quân đội Nhật Bản tại các khu vực bị chiếm đóng ở Thái Bình Dương đã xây dựng các mạng lưới đường hầm rộng khắp, giúp lực lượng của họ tránh bị tấn công từ trên không và các cuộc bắn phá của hải quân từ các lực lượng Đồng minh. Trong các cuộc tấn công đổ bộ ở những nơi như Philippines và Iwo Jima, các lực lượng của Hoa Kỳ và quân Đồng minh đã phải đối đầu với một loạt các mạng lưới đường hầm của Nhật Bản. Cuối cùng, họ phải dùng đến chất nổ có sức công phá cao để phá sập các lối vào đường hầm, nhốt hàng nghìn quân Nhật bên trong.

Địa đạo Củ Chi, mạng lưới đường hầm ở vùng lân cận Sài Gòn, là một phần thiết yếu trong chiến lược du kích, và cũng là một điểm tham quan du lịch nổi tiếng hiện nay. Một số đường hầm đủ lớn để chứa các cơ sở bệnh viện và doanh trại; chúng đủ vững chắc để chịu được bất cứ cuộc bắn phá hạt nhân nào, trong thời gian ngắn. Hệ thống địa đạo không chỉ bảo vệ các máy bay chiến đấu Việt Nam trước sức mạnh không quân của Hoa Kỳ, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc tấn công du kích.

Hầm để chống khủng bố

Trong thế kỷ 21, các đường hầm đã được sử dụng để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của các tổ chức khủng bố. Trong cuộc chiến Afghanistan, các đặc nhiệm quân sự sớm phát hiện ra rằng al-Qaida đã củng cố một loạt mạng lưới đường hầm nối tới các hang động tự nhiên trong vùng Tora Bora.
Không chỉ giúp che giấu di chuyển quân lính và nguồn cung cấp, chúng còn tỏ ra vững vàng trước hầu như mọi loại vũ khí của liên minh. Các khu phức hợp bao gồm hệ thống lọc không khí để ngăn ngừa ô nhiễm hóa chất, cũng như các kho chứa lớn và thiết bị liên lạc tinh vi cho phép lãnh đạo al-Qaida duy trì quyền kiểm soát đối với những người theo dõi của họ.

Và hoạt động đào hầm trong và xung quanh Gaza tiếp tục cung cấp một công cụ để Hamas đưa máy bay chiến đấu vào lãnh thổ Israel, đồng thời cho phép người Palestine vượt qua sự phong tỏa của Israel đối với biên giới của Gaza.

Đường hầm của Liên Xô và Ukraine

Ngày nay, nhiều đường hầm đang được sử dụng trong nỗ lực bảo vệ đất nước của Ukraine được xây dựng từ thời Chiến Tranh Lạnh.

Để chống lại lợi thế không quân và vệ tinh do Hoa Kỳ và NATO nắm giữ, quân đội Liên Xô đã đào những con đường ngầm dưới các trung tâm dân cư chính.

Các hệ thống dưới lòng đất là những nơi trú ẩn nhất định cho dân thường trong trường hợp xảy ra một cuộc tấn công hạt nhân, và cho phép các lực lượng quân sự di chuyển. Chính những đường hầm kết nối phần lớn cơ sở hạ tầng công nghiệp ở Mariupol ngày nay - và đã trở thành công cụ chính của lực lượng Ukraine.

Các thành phố khác của Ukraine cũng có hệ thống tương tự, một số có niên đại hàng thế kỷ. Ví dụ, Odesa, một cảng quan trọng khác của Biển Đen, có mạng lưới đường hầm trải dài hơn 2,500 km. Ban đầu, nó đùng để khai thác đá vôi - và cho đến nay, không có bản đồ nào đầy đủ chi tiết của các đường hầm này.

Trong trường hợp Nga tấn công Odesa, kinh nghiệm về các lối đi ngầm có thể là một tài sản vô cùng quý giá đối với quân phòng thủ. Hơn 1,000 lối vào hầm mộ chắc chắn sẽ khiến những kẻ tấn công phải khựng lại trước khi ra tay vào thành phố - giống như các đường hầm dưới nhà máy thép ở Mariupol, đã buộc Putin phải cân nhắc lại kế hoạch của mình.
 
Việt Báo phỏng dịch theo bài viết của Paul J. Springer, Giáo sư Khoa Nghiên cứu Quân sự trường Hàng không, một chuyên gia về lý thuyết và lịch sử quân sự, được đăng trên trang TheConversation.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có mấy ai trong chúng ta không bị ảnh hưởng bởi cái đẹp của vầng trăng, trong đêm trăng sáng lại nghe văng vẳng tiếng đàn, hòa điệu với tiếng vỗ về của sóng nước, ngập tràn hơi lạnh của sương thu? Vẻ đẹp này được thể hiện trong hai bài hát Hương Xưa và Nguyệt Cầm của cố nhạc sĩ Cung Tiến. Hương Xưa mang cả vầng trăng và tiếng đàn vào bài hát. Nguyệt Cầm là bài hát nói về một bài thơ nói về tiếng đàn và tâm sự của người khảy đàn lẫn người nghe đàn. Nghe câu hát “Kìa thuyền trăng, trăng nhớ Tầm Dương, nhớ nhạc vàng, đêm ấy thuyền neo bến ấy” làm sao không nhớ đến Tì Bà Hành của Bạch Cư Dị?
Người lớn gọi ông: Sáu Thi. Tên ông gắn liền nhiều lời đồn. Nhà văn viết tác phẩm lớn chưa chắc được ngưỡng mộ như người có nhiều huyền thoại. Số đông không quan tâm Xuân Diệu, Huy Cận... không biết đến Võ Phiến, Mai Thảo... Danh tiếng thổi phồng theo tưởng tượng. Văn chương lớn nhỏ theo tác phẩm. Huyền thoại kề môi thì thầm sát lỗ tai, câu chuyện từ từ hóa máu thấm vào trí nhớ. Toàn cõi Bình Định ai cũng biết Sáu Thi.
Trong hàng đệ tử của Đức Phật, có một vị tăng hình dung xấu xí, lùn thấp, không chút nào hảo tướng, nên người mới gặp tự nhiên khó tôn kính. Đó là Trưởng lão Bhaddiya. Cũng chính vì nhận ra nhiều vị tăng đã khởi tâm bất kính khi thấy nhà sư lùn thấp Bhaddiya, Đức Phật đã nói lên hai bài kệ làm giựt mình đại chúng, rằng chính nhà sư Bhaddiya đã giết cha, giết mẹ, giết vua, giết cả triều đình… Bài này sẽ nhìn về cách Đức Phật nói lên các ẩn dụ như thế. Để rồi dẫn tới ý nghĩa về hạnh sống một mình. Các sai sót có thể có, người viết xin được sám hối.
Bước vào rừng, khách thơ sẽ thấy thân nhiệt hạ xuống ngay lập tức. Cái nóng rát bỏng trên da không còn nữa. Và mùi hương rừng thoang thoảng vây quanh. Rừng có hương thơm sao? Có chứ! Bạn chẳng từng nghe nhà văn Sơn Nam với tập truyện nổi tiếng “Hương Rừng Cà Mau” đó sao. A! Có thể mùi cây tràm cây đước chỉ là mùi hương tượng trưng, nghiêng về tinh thần hơn là vật chất, nhưng ở đây, New Jersey, hương rừng có thể được nhận thức bằng khứu giác.
Thời văn học miền Nam trước năm 1975 đã chứng kiến mối lương duyên thơ văn thành đôi phối ngẫu Trần Dạ Từ-Trần Thy Nhã Ca bền chặt cho đến nay đã trên 60 năm. Đôi tình nhân hình như đến với nhau với thi ca (và báo-chí) xe duyên và cả hai đã có những bài thơ tình đi vào văn học sử. Nhà thơ Nhã Ca sau này kể lại chuyện lần đầu gặp nhằm ngày Mùng Một Tết năm 1958 trong “Hồi Ký Một Người Mất Ngày Tháng (Thương Yêu, 1991): "Buổi trưa. Bao nhiêu người qua đường, biết ai là anh. Run quá. Coi tề, cái người nhìn mình một cái rồi quay đi, bước nhanh hơn. Anh? Anh vậy há? Mỏng như tờ giấy. Còn mặt mũi? Kịp thấy chi mô. Mới nghĩ chắc anh đó, mắt con bé đã hoa lên rồi. Nhát”. Gặp người thật sau những trao đổi thư từ: “Những lá thư xuôi ngược cả năm Sàigòn-Huế-Sàigòn. Những bài thơ tình đầu. Anh ngồi đó ốm nhom…”. Hôm sau, khi đến gặp từ giã anh ở khách sạn đã thấy trên bàn có bài thơ “Thủa Làm Thơ Yêu Em”, ký tên Trần Dạ Từ - bài sẽ đăng trên Sáng Tạo số Xuân Kỷ Hợi 1959.
Một cõi mênh mông các cảnh giới. Cũng là một chiếc kén bé nhỏ gói bí ẩn về giấc mơ một ngày kia sẽ tung ra muôn trùng tơ quấn quít hiện thực. Một khung cửa khép với chờ đợi, với cô lẻ số phận. Một bầu trời cao rộng với những đường bay mạnh mẽ hoan lạc của cánh chim tự do. Một mặt biển bị xao động bởi những con sóng ngầm làm ngạc nhiên thinh lặng của vực sâu. Là cánh cửa được mở tung bởi ngôn ngữ như những tiếng gõ dồn dập. Là bức tường bức phá bởi sức mạnh của ý tưởng. Là con đường hiểm hóc hay mượt cỏ, những bước chân vẫn đi tới đi tới. Ở đó bạn nghe được khát vọng tìm hạnh phúc chân thực như trở về cội nguồn tâm sâu thẳm. Ở đó bạn sẽ thấy cảm xúc mình bung ra như sắc mầu của chiếc kính vạn hoa. Ở đó, những con chữ như nam châm hút cảm xúc người đọc. Ở đó, từ trường say đắm thơ mộng của Đinh Thị Như Thúy, Phạm Thị Ngọc Liên, Nguyễn Thùy Song Thanh, Vũ Quỳnh Hương.
Có những điều chúng ta chưa biết, chưa chắc chắn ở tương lai và đời sau, nhưng nguyên lý nhân-quả là lẽ tự nhiên, tất định, không thể sai khác; ai cũng có thể suy nghiệm, hiểu biết và tin vào. Vì vậy, khi một người chỉ tâm tâm niệm niệm tránh xa các điều ác, tận tụy làm những điều lành, sẽ nắm chắc hạnh phúc an vui trong hiện tại, trong tương lai gần, tương lai xa, mà không cần phải tìm hiểu cảnh giới nào sẽ chờ đón mình.
Cuộc chiến tranh của Ukraine và Nga gợi trong tôi nhiều suy nghĩ. Khi người Ukraine bị mất đảo Rắn vào tay Nga, tôi nghĩ đến Trường Sa. Tôi lo sợ cho người Ukraine bị một nước láng giềng khổng lồ xâm lăng như tôi lo sợ cho người Việt trước hiểm họa Trung quốc. Cả triệu người Ukraine đi tị nạn ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tôi cảm thông với họ vì tôi cũng từng là người tị nạn. Tôi xót xa cho họ bị tước đoạt ngôn ngữ vì tôi là người bị mất ngôn ngữ Việt khi lưu lạc ở xứ người. Đi ngược dòng lịch sử, tôi “tìm ra” Gogol là nhà văn Nga gốc Ukraine. Tôi dùng chữ “tìm ra” là để nhấn mạnh sự thiếu sót “ai cũng biết chỉ có mình không biết” của tôi. Nghe tên Gogol đã lâu, tôi biết ông là nhà văn Nga, nổi tiếng với “Dead Souls - Những Linh Hồn Chết” và “The Overcoat – Chiếc Áo Khoác” nhưng tôi chưa đọc và cũng không để ý đến nguồn gốc Ukraine của ông. Như thế nào là người của một quốc gia nhưng có nguồn gốc của một nước khác?
Đỗ Gia- một gia đình thân hữu lâu đời với nhà văn Doãn Quốc Sỹ - đã thực hiện audio book và bắt đầu đưa lên youtube, để người Việt khắp nơi trên thế giới có thể nghe đọc một số tác phẩm tiêu biểu của nhà văn lão thành này.
Tôi không lo rằng tác phẩm nghệ thuật thực sự có giá trị sẽ bị hủy hoại. Các tác phẩm văn học có thể trường tồn một phần là vì chúng đủ sức nặng để được đọc và ngẫm trước những thăng trầm của hiện tại. Lập luận này có thể được đưa ra với bất kỳ tác phẩm vĩ đại nào trong văn học Nga, nhưng với tư cách là học giả chuyên nghiên cứu về các tác phẩm của Leo Tolstoy và Fyodor Dostoevsky, tôi sẽ nói về những tác phẩm văn học nổi tiếng nhất của họ.