Hôm nay,  

Ngày Chiến Sĩ Trận Vong Nghĩ Đến Người Chinh Phụ

22/05/202000:00:00(Xem: 3887)

NGAY CHIEN SI TRAN VONG 02
Ngày Lễ Chiến Sĩ Trận Vong Ở Hoa Kỳ. (nguồn: www.sofrep.com )

“Cũng có kẻ mắc vào khóa lính,

Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,

Nước khe cơm ống gian nan,

Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.

Buổi chiến trận mạng người như rác,

Phận đã đành đạn lạc tên rơi.

Lập lòe ngọn lửa ma trơi,

Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.”

 

Đó là đoạn văn tế các chiến sĩ trong “Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh” của thi hào Nguyễn Du. Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh của thi hào Nguyễn Du thường được đọc trong ngày Rằm Tháng Bảy với lễ chẩn tế thập loại cô hồn được tổ chức trong các Chùa trùng với Lễ Vu Lan.

Tại Hoa Kỳ, Ngày Lễ Chiến Sĩ Trận Vong (Memorial Day) năm nay 2020 nhằm vào Thứ Hai, 25 tháng 5. Đây là ngày lễ liên bang tại Hoa Kỳ được tổ chức vào Thứ Hai thuộc tuần lễ cuối của tháng 5 hàng năm. Ngày Lễ Chiến Sĩ Trận Vong để vinh danh và tưởng niệm các quân nhân Hoa Kỳ đã nằm xuống ngoài chiến trận.

Các chiến sĩ là những người hy sinh đời trai trẻ của họ để đi theo tiếng gọi lên đường bảo vệ tổ quốc quê hương hay bảo vệ chính nghĩa tự do và hòa bình trên thế giới. Các chiến sĩ có người đã lập gia đình có người còn độc thân. Những quân nhân độc thân khi ra sa trường thì có cha mẹ và anh chị em ở nhà thương tưởng chờ mong ngày về. Còn những chiến sĩ đã có gia đình khi ra chiến trường giết giặc thì có vợ con ở nhà trông ngóng đợi chờ.

Những người vợ của các chinh phu được gọi là những chinh phụ. Những chinh phu nơi chiến trận phải đối diện với bao hiểm nguy tai họa của đạn lạc tên rơi và sự sống chết của họ mỏng manh như ‘chỉ mành treo chuông’. Nhưng, những người chinh phụ ở nhà thì phải gánh chịu muôn vàn khổ lụy đè nặng lên đôi vai gầy yếu của người phụ nữ, từ trách nhiệm thay chồng lo cho gia đình và con cái đến nỗi đau vò xé tâm can khi mòn mỏi chờ mong ngày chinh phu trở về.

Hơn ai hết, người phụ nữ Việt Nam là những người thâm cảm sâu sắc nỗi đau của người chinh phụ, vì đất nước Việt Nam hầu như thời nào cũng có chiến tranh và những hệ quả của chiến cuộc. Trong chiến tranh, những chinh phụ đau đớn vì chồng còn nơi chiến trận không biết sống chết ra sao. Sau chiến tranh, như sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, những chinh phụ khổ sở vì chồng bị đẩy vào lao tù khổ sai của chế độ cộng sản. Những chinh phụ thời kỳ sau 1975 tại Miền Nam không những mất mát về tình cảm mà còn gánh chịu muôn vàn khốn khổ về vật chất.

Trong nền văn học Việt Nam, thân phận và tâm trạng của người chinh phụ đã được mô tả một cách thấm thía, mà nổi tiếng nhất là trong tác phẩm “Chinh Phụ Ngâm” do thi sĩ Đặng Trần Côn viết bằng Hán văn và nhiều bản dịch chữ Nôm được thực hiện bởi nhiều nhà thơ, trong đó bản dịch chữ Nôm của nữ thi sĩ Đoàn Thị Điểm là một tuyệt tác được lưu truyền rộng rãi nhất.
 
Về Chinh Phụ Ngâm
 
Theo Bách Khoa Từ Điển Mở Tiếng Việt, Chinh Phụ Ngâm có nhiều bản dịch bằng chữ Nôm theo thể thơ lục bát và song thất lục bát gồm các bản dịch của Đoàn Thị Điểm, Phay Huy Ích, Nguyễn Khản, v.v... Bản dịch phổ biến nhất xưa nay theo thể song thất lục bát, dài 412 câu, có tên Chinh Phụ Ngâm Khúc Diễn Ca, được cho là của nữ thi sĩ Đoàn Thị Điểm (1705-1749), hay có người cho là của Phan Huy Ích (1751-1822), với tên Chinh Phụ Ngâm Diễn Ca Tân Khúc.

NGAY CHIEN SI TRAN VONG 01
Hình minh họa Chinh Phụ Ngâm. (nguồn: www.theki.vn )

Nguyên tác Hán văn của Chinh Phụ Ngâm Khúc do thi sĩ Đặng Trần Côn sáng tác. Theo tài liệu được đăng trên trang mạng www.thanhxuan.gov.vnwww.vanhien.vn, thì năm sinh của Đặng Trần Côn vẫn chưa được xác định. Các tài liệu chỉ dựa vào những nhân vật mà ông có giao tiếp cùng thời như Ngô Thời Sỹ (1726-1780) và Đoàn Thị Điểm để phỏng đoán ông sinh vào khoảng 1707 và mất vào khoảng 1745, trước ở Hải Hưng sau về Hà Nội. Trong khi bà Đoàn Thị Điểm sinh vào năm 1705 và mất vào năm 1749, tại làng Giai Phạm, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

Các tác phẩm của Đặng Trần Côn đều bằng chữ Hán, Ngoài Chinh phụ ngâm khúc, còn nhiều tác phẩm như: Phủ Chưởng Tân Thư, Yêu Hưởng Thưởng Xuân Thiếp, Lãn Trai Di Thảo, Hạ Nguyễn Quý Hầu Cập Đệ Gia Môn Vinh Thịnh Tự và Đề Tiêu Tương Bát Cảnh Đồ Thi Thảo...

Bà Đoàn Thị Điểm, ngoài bản dịch Nôm của Chinh Phụ Ngâm còn viết tập Truyền Kỳ Tân Phả (chữ Hán), Nữ Trung Tùng Phận gồm 1401 câu thơ và bài Bộ Bộ Thiềm Thu Từ. Ngoài ra còn có một số bài thơ văn khác của bà (gồm chữ Hán, chữ Nôm) được chép trong tập Hồng Hà Phu Nhân Di Văn của tiến sĩ Nguyễn Kiều mới được phát hiện gần đây, theo Bách Khoa Từ Điển Mở Tiếng Việt.

Tương truyền rằng bà Đoàn Thị Điểm là một giai nhân tuyệt sắc lúc bấy giờ nên có rất nhiều đấng mày râu đến dạm hỏi xin cưới, nhưng bà chưa để ý đến ai. Trong lúc đó, Đặng Trần Côn là học trò của thân phụ của bà Điểm là cụ Đoàn Doãn Nghi. Côn nhỏ hơn bà Điểm hai tuổi lại đem lòng yêu thích bà, nên có lần đã đến dạm hỏi xin cưới bà. Bà Đoàn Thị Điểm sau đó đã nói với người quen rằng Đặng Trần Côn miệng còn hôi sữa, làm thơ còn chưa nên mà bày đặt chuyện vợ chồng.

Gã họ Đặng nghe vậy thì chạm lòng tự ái nên quyết chí rèn mài kinh sử và luyện thơ. Ông đã dốc chí bình sinh để viết Chinh Phụ Ngâm bằng Hán văn. Khi viết xong Chinh Phụ Ngâm, Đặng Trần Côn đưa cho Ngô Thời Sỹ đọc và được khen là văn tài kiệt xuất. Đặng Trần Côn cũng có đưa cho bà Điểm xem nhưng bà lúc đó chưa dịch liền.

Trong bài “Đặng Trần Côn - Nhân vật lịch sử nổi tiếng thời vua Lê – chúa Trịnh” đăng trong trang web www.vanhien.vn cho biết bà Đoàn Thị Điểm đến năm 1742 lúc đó bà đã 37 tuổi mới lấy chồng, chồng bà là Tiến sỹ Nguyễn Kiều, nổi tiếng hay chữ, nhưng đã góa vợ mới lấy Đoàn Thị Điểm. Nhưng vừa cưới bà Đoàn Thị Điểm xong thì Tiến sỹ Nguyễn Kiều theo lệnh của chúa Trịnh Doanh (1720 – 1767) và vua Lê Hiển Tông (1716 - 1786) lên đường sang Trung Quốc đi sứ nhà Thanh. Chuyến đi sứ này đã mất 3 năm Nguyễn Kiều mới về nước.

Có lẽ trong thời gian đó, tức là từ năm 1742 – 1745, Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn đã được sáng tác. Trong đó Đặng Trần Côn dùng nhân vật là  một phụ nữ có chồng đi xa bày tỏ tâm trạng nhớ thương chồng và mô tả tình cảnh đơn độc của mình. Điều này phù hợp với hoàn cảnh của bà Đoàn Thị Điểm nên bà đã dịch Chinh Phụ Ngâm từ chữ Hán ra chữ Nôm. Nhiều người khen bản dịch Nôm của Đoàn Thị Điểm còn hay hơn bản Hán của Đặng Trần Côn. Điều đó cũng dễ hiểu, bởi vì theo lẽ tự nhiên đọc bản chữ Nôm là đọc tiếng mẹ đẻ nên dễ cảm nhận được chữ nghĩa và tâm tình của tác phẩm hơn bản Hán. Tất nhiên, yếu tố chính vẫn là tự bản thân của bản dịch Nôm vốn đã hay từ lời tới ý thì người đọc mới cảm nhận được cái hay của nó.
 
Nỗi lòng người chinh phụ
 
Tình cảm mặn nồng của vợ chồng luôn luôn buộc chặt họ vào nhau như hình với bóng. Một khi vì hoàn cảnh bất đắc dĩ nào đó mà phải xa nhau thì bên nào cũng đau đớn nhớ nhung và mong chờ gặp lại.

Chinh Phụ Ngâm bắt đầu bằng việc người chồng nhận lệnh vua phải ra trận chiến đấu chống quân thù.
 
“Chín lần gươm báu trao tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.”
 
Và rồi:
 
“Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành liền mong tiến bệ rồng,
Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời.”
 
Tình cảnh tử biệt sanh ly là nỗi đau da diếc nhất của đời người, đặc biệt là người chinh phụ khi tiễn đấng chinh phu lên đường.
 
“Ngòi đầu cầu nước trong như lọc,
Đường bên cầu cỏ mọc còn non.
Đưa chàng lòng dặc dặc buồn,
Bộ khôn bằng ngựa thủy khôn bằng thuyền.
Nước trong chảy lòng phiền chẳng rửa
Cỏ xanh thơm dạ nhớ khó quên
Nhủ rồi tay lại trao liền
Bước đi một bước lại vin áo chàng.”
 
Kẻ đi thì đi không đành và người tiễn thì cũng không muốn rời người yêu, nên cứ níu áo lần lựa không buông. Sợi dây tình ái vô hình vô tướng mà trói con người chặt đến không bứt ra nổi. Bởi vậy nhà thơ Nguyễn Công Trứ mới than “Cái tình là cái chi chi?”
 
“Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy.
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chành ý thiếp ai sầu hơn ai?”
 
Nhưng nỗi sầu lúc chia tay mới chỉ là khởi đầu của đoạn đường cô quạnh đau đớn đứt ruột dài thăm thẳm tiếp theo đó và có khi là cả đời người.
Đến đây, Chinh Phụ Ngâm mô tả bằng độc thoại tâm trạng của người chinh phụ nghĩ đến đấng lang quân đang xông pha nơi chiến trường xa xôi nào đó.
 
“Chàng từ đi vào nơi gió cát,
Đêm trăng này nghỉ mắt phương nao?
Xưa nay chiến địa dường bao,
Nội không muôn dặm xiết sao dãi dầu.
Hơi gió lạnh người rầu mặt dạn,
Dòng nước sâu ngựa nản chân bon.
Ôm yên gối trống đã chồn.
Nằm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh.”
 
Nghĩ đến cảnh kẻ ở người đi trong lúc tình yêu còn bén lửa để cho ngày tháng chờ đợi nhạt phai hương sắc, người chinh phụ đau đớn thốt lên.
 
“Trang phong lưu đang chừng niên thiếu,
Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên.
Nỡ nào đôi lứa thiếu niên,
Quan san để cách hàn huyên cho đành!
Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu,
Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca.
Nay quyên đã giục oanh già,
Ỷ nhi lại gáy trước nhà líu lo.”
 
Rồi ngày ngày ra trước sân để chờ ngóng tin chàng:
 
“Tin thường lại, người không thấy lại,
Gốc hoa tàn đã trải rêu xanh.
Rêu xanh mấy lớp chung quanh,
Sân đi một bước, trăm tình ngẩn ngơ.”
 
Nhưng chờ mãi mà không thấy bóng dáng chinh phu ở đâu. Người chinh phụ ngày càng nhớ thương bi lụy. Chinh Phụ Ngâm mô tả một cách tài tình và truyền cảm không thể tả tâm trạng sầu chất ngất của người chinh phụ cô đơn lẻ loi trong những lời độc thoại đau đớn nghe ra như xé nát tâm can. Trong hiện thực biết là không thể tìm gặp được chinh phu, người chinh phụ tìm chàng trong mộng.
 
“Nếm chua cay tấm lòng mới tỏ,
Chua cay này, há có vì ai?
Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi,
Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề.
Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng,
Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn.
Duy còn hồn mộng được gần,
Đêm đêm thường đến Giang Tân tìm người.”
 
Mộng dù dài thì có lúc cũng phải tỉnh để thấy rằng, “Tình trong giấc mộng, muôn vàn cũng không!” Khi tỉnh ra chinh phụ thấy chỉ có một tấm lòng son sắc với đấng lang quân là trường cữu. Và nàng nguyền giữ lấy tấm lòng đó cho đến khi chàng trở về. Lúc đó thì:
 
“Xin vì chàng xếp bào cởi giáp,
Xin vì chàng giũ lớp phong sương.
Vì chàng tay chuốc chén vàng,
Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng.
Giở khăn lệ, chàng trông từng tấm,
Đọc thơ sầu, chàng thấm từng câu.
Câu vui đối với câu sầu,
Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời.
Sẽ rót vơi lần lần từng chén,
Sẽ ca dần ren rén đòi liên.
Liên ngâm đối ẩm đòi phen,
Cùng chàng lại kết mối duyên đến già.”
 
Một kết cuộc có hậu. Dù thực tế chinh phu và chinh phụ vẫn chưa đoàn tụ, nhưng Chinh Phụ Ngâm đã mở được cái thắt gút buộc chặt tâm tình của chinh phụ trong bóng tối thê lương bi lụy nhất của đời người phụ nữ khi thương nhớ chồng ở phương xa mà không biết làm cách nào để gặp được. Nhờ thế, chinh phụ sẽ sống những ngày đợi chờ chinh phu trong tâm trạng lạc quan hy vọng.

Trong truyền thuyết dân gian Việt Nam cũng nói đến câu chuyện người phụ nữ bồng con đứng chờ đợi người chồng đi đánh giặt nơi biên cương mịt mù lâu quá mà hóa đá, nên có Hòn Vọng Phu.

NGAY CHIEN SI TRAN VONG 03

Nhạc sĩ Lê Thương và nhạc phẩm Hòn Vọng Phu.(nguồn: www.langmai.org )


Nhạc sĩ Lê Thương (1914-1996) có nhạc phẩm Hòn Vọng Phu nổi tiếng trên 70 năm qua, vì ông sáng tác bài đó vào khoảng từ năm 1943 đến 1947, theo Bách Khoa Từ Điển Mở Tiếng Việt. Bản nhạc Hồn Vọng Phu, gồm 3 phần (Đoàn Người Ra Đi, Ai Xuôn Vạn Lý và Người Chinh Phu Về) của Lê Thương dường như ít có người Việt nào ở độ tuổi trên 50 mà không biết.
 
“…Qua Thiên San kìa ai tiễn rượu vừa tàn,
Vui ca xang rồi đi tiến binh ngoài ngàn.
Người đi ngoài vạn lý quang sơn,
Người đứng chờ trong bóng cô đơn.
Bên Man Khê còn tung gió bụi mịt mùng,
Bên Tiêu Tương còn thương tiếc nơi ngàn trùng.
Người không rời khỏi kiếp gian nan,
Người biến thành tượng đá ôm con…”

Ý kiến bạn đọc
25/05/202023:55:18
Khách
Mich Long tui "lựng bàn" chút xíu về văn thơ cổ :
"Chín LẦN gươm báu trao tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh” (trích)
- "Cửu trùng" tiếng Hán Việt có nghĩa là chín lần, chín tầng, chín bậc. Là lối nói tượng trưng chỉ ông vua, đang ngự trên ngai vàng, vì ngôi vua được xây trên chín bậc thang.
- Tuy nhiên khi dịch sang tiếng nôm mà dịch theo kiểu...thẳng băng thành "chín LẦN" nghe ra dường như ý nghĩa của nó có vẻ hoàn toàn...trật lất.
- Nếu dịch như vậy chẳng khác gì cho rằng vị chinh phu này đã có tới...chín lần trong một đêm được nhận gươm báu của nhà vua trao cho ông ta để đi đánh giặc.
- Trong khi thật tế, theo câu thơ dịch, thì ông này được cái người ngồi trên chín bệ, tức là nhà vua giao cho gươm báu để "nửa đêm truyền hịch" đi đánh giặc liền, tức trong hai câu thơ này, ổng chỉ được có...một lần vua giao cho cái vụ "định ngày xuất chinh".
- Hai sự việc này hoàn toàn khác xa nhau. Sao lại có thể dịch là ông tướng quân này có...tới chín lần được trao gươm đi đánh trận cho được? Hahaha coi bộ thời này chắc loạn lạc dữ à nha...
- Ngày xưa nếu nhớ không lầm, tui có học qua câu này từng được dịch là:
"Chín TẦNG gươm báu trao tay
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh”
- Từ "chín TẦNG" trên ngai, tức nhà vua trao gươm cho tướng quân đi đánh trận, nghe nó hợp lý hơn "chín LẦN" chứ, phải không ta?
- Có lẽ tác giả đã trích dẫn sai từ một bản dịch không chính xác?
- Ngoài ra nếu tra theo hai câu thơ từ Hán Việt bản gốc thì ý nghĩa của nó còn...trật lất hơn nữa, đó là:
"Cửu trùng án kiếm khởi đương tịch
Bán dạ phi hịch truyền tướng quân"
- Tạm dịch, trong khi nhà vua đang "ăn nhậu" với cung phi mỹ nữ, bỗng nghe hung tin giặc kéo quân đến đánh, cho nên "ông dzua" mới:
"Vua liền chống kiếm đứng lên
Nửa đêm phát hịch, lệnh truyền tướng quân"
- Tức là mặc dù đang lúc nửa đêm, tổng thống ổng vẫn sai quân sĩ mang "công văn khẩn cấp" bảo đại tướng tổng tham mưu trưởng quân đội phải lập tức đến trình diện gấp để cùng tổng thống bàn phương mà đối phó. Chứ ổng chưa có giao gươm giao kiếm gì ráo cho cái ông đại tướng này để mà...định ngày xuất chinh.
- Nhưng khi dịch sang tiếng nôm thành ra là:
"Chín TẦNG gươm báu trao tay
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh”
- Ta nghe tình tiết hai câu thơ có phải rất là nhịp nhàng, sướng tai, êm đềm, lưu loát?
- Hahaha tui bàn như vậy có hợp lẽ không quý vị?
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
Có lần tôi đứng trước một căn phòng đầy học sinh trung học và kể một câu chuyện về thời điểm chiến tranh Việt Nam chấm dứt, về việc tôi đã bỏ chạy sang Mỹ khi còn nhỏ, và trải nghiệm đó vẫn ám ảnh và truyền cảm hứng cho tôi như thế nào, thì một cô gái trẻ giơ tay hỏi tôi: “Ông có thể cho tôi biết tại sao cha tôi không bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc chiến đó không? Cha tôi uống rượu rất nhiều, nhưng lại ít nói.” Giọng nói cô run rẩy. Cô gái bảo cha cô là một người lính miền Nam Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều cảnh đổ máu nhưng nỗi buồn của ông phần nhiều là trong nội tâm, hoặc nếu đôi khi thể hiện ra ngoài thì bằng những cơn thịnh nộ.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.