Hôm nay,  

Từ cây mít bên mép hố bom

12/01/202400:00:00(Xem: 1650)

goc mit
 
Mấy cái rễ chết khô này là những gì còn lại của cây mít mà tự tay tôi trồng mấy chục năm trước, bên mép một hố bom. Chúng đã theo tôi qua chặng hành trình hơn bảy ngàn cây số từ một vùng quê Quảng Nam đến thành phố lớn nhất của nước Úc.

Thời chiến quê tôi là vùng đất không người và, có lúc, là vùng “tự do oanh kích”. Trở về đó sau tháng Tư năm 1975, khu vườn xưa của tổ tiên đã là một cái rừng rậm, màu xanh chồng lên màu xanh, mấy tầng, mấy lớp với những táng cây cao thấp chằng chịt dây leo, những chùm chìm bìm phủ từ trên xuống và những bụi đơm xôi đầy gai góc cố thủ bên dưới chờ chực cơ hội ngóc đầu lên, chỉ trừ màu đất sét đỏ quạch của cái hố bom sâu hoắm ở góc vườn, dấu tích của một trận oanh tạc cách đó ba năm, trong “Mùa hè đỏ lửa”.

Rồi thì cái hố ấy cạn dần. Đầu tiên là ngói gạch vỡ vụn từ căn nhà cũ đổ nát của tổ tiên mà anh chị em chúng tôi san xuống, sau đó là đất cát bồi tụ theo từng mùa mưa rồi, đến một lúc nào đó, khi cái hố bom đã đầy gần phân nửa, tôi ươm mấy hạt mít chung quanh để từng ngày, từng ngày, chứng kiến chúng nẩy nở, sinh sôi. Mấy năm sau, khi tôi đi xa hẳn, những cây mít ở lại bắt đầu kết trái rồi, mấy năm sau nữa, khi em tôi vào Sài Gòn lập nghiệp, gởi khu vườn cùng căn nhà làm nơi thờ tự trong bàn tay chăm sóc của một người bà con, chúng vẫn kiên trì bấu rễ vào cái hố bom mà ra hoa, cho quả.

Nhưng một thời gian sau nữa, cách đây mấy năm, cây mít của tôi bị bức tử, chết khô.

Nhưng nó không hề đơn độc. Cùng chung phần số là nguyên một hàng cây cao lớn, mạnh khỏe dọc theo ranh giới với khu vườn hàng xóm mà, theo giải thích của những người ở đó, là sự cạnh tranh ánh sáng của trời cùng dưỡng chất của đất từ bàn tay chủ nhân khu vườn liền kề, cái sự cạnh tranh vẫn đều đặn xảy ra ở miền quê thời này bởi thuốc độc giết cây của Trung Quốc đang bán ê hề ngoài chợ.

Tôi nghe lời giải thích này này hai năm trước, khi về quê chịu tang mẹ. Dưới những hạt nước bay bay của cơn mưa phùn tiết Xuân phân trong một chiều nhá nhem tối, tôi đứng ở góc vườn lặng nhìn những cái rễ mít chết khô lầm lũi an phận dưới cái hố bom đã cạn mà thảng thốt nhìn ra bóng dáng khẳng khiu của mình mấy chục năm trước, đang chênh vênh bên bờ mép nghiêng 45 độ của cái hố bom đỏ quạch màu đất sét, cái lưng khòm xuống, cái xẻng cùng mấy hạt mít trong tay… Ngay khoảnh khắc đó tôi nảy ra quyết tâm là, bằng mọi giá, phải mang chúng theo như một chứng vật lịch sử của riêng mình, dạy cho con tôi biết rằng đây là những cái rễ từ cây mít mà tự tay ba đã trồng. Tôi nhễ nhại mồ hôi lôi lên mặt đất. Tôi kỳ cạch rửa ráy, đẽo gọt. Rồi tôi nhờ một người thợ mộc can thiệp lần cuối trước khi sấy khô, tẩy trùng để có thể vượt qua hàng rào kiểm dịch của nước Úc.

Tôi kỳ công như thế bởi đó không chỉ là chứng vật của riêng tôi mà là chung của tất cả chúng ta. Từ dấu tích hoang tàn của sự hủy diệt bằng sức mạnh của một đế quốc, một siêu cường, cây mít đã vươn lên mạnh mẽ, đã đâm chồi kết trái nhưng rồi lại chết đứng giữa trời, như là Từ Hải, chỉ vì thuốc độc của giống bành trướng đang hung hăng háu đá như một thứ chuẩn siêu cường tập tành làm đại đế quốc.

Nếu lịch sử là chuyện đã qua thì chứng vật cho một chặng đời của tôi này còn có thể là “tương lai” của chúng ta, những người cùng chia sẻ cái “đại tự sự” kết tụ từ muôn vàn những câu chuyện lớn nhỏ khác nhau; từ huyền tích trăm trứng trăm con để gọi nhau là “đồng bào” đến những câu chuyện thấp thoáng bóng dáng lẫm liệt của Lữ Gia, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung v.v khi những bậc anh hùng dân tộc này phản ứng trước sức ép của bọn xâm lược phương Bắc.
 
Mà đâu chỉ là những cây xanh, với cái bọn xâm lược này? Cả những con giun hiền lành, an phận thủ thường cày cuốc trong lòng đất cũng bị chúng lập mưu để tàn sát hàng loạt thì đây, rõ ràng, là một sự “truy sát” đối với tương lai. [1]
 
Bởi vậy, từ cây mít, con giun, tôi lại nghĩ về loài nai.

Nai là một trong những nguồn thức ăn ưa chuộng của loài hổ và, sau hàng ngàn năm tiến hóa, chúng vẫn tiếp tục ngờ nghệch làm mồi như một sinh vật mù màu, không nhận ra được màu xanh và đỏ. Dưới mắt nai, cây rừng xanh và da hổ nâu đã hòa lẫn vào nhau trong sắc xám nên, không cần phải ngụy trang, giống hổ chỉ cần bước khẽ và, đợi đến khi xáp lại thật gần, ở khoảng cách chưa tới mười mét, con mồi hiền lành ngơ ngác kia mới phát hiện được mối nguy thì đã quá muộn. [2]

Sau mấy ngàn năm sống chung với với thứ xóm giềng chuyên hành xử bằng luật rừng như thể là chúa sơn lâm, trong đó có một ngàn năm bị đô hộ, vậy mà, đến tận hôm nay, chúng ta vẫn hành xử như một dân tộc bị mù màu. Chúng ta, như đã kể ở trên, vẫn sử dụng thuốc độc của chúng hay chạy theo mấy đồng tiền vặt của chúng để tàn hại chính môi trường và nguồn sống của mình. Nhưng nếu hạng dân ngu khu đen ở dưới bị bệnh “mù màu” thì, ở trên, những chứa tước quyền hành đang bị “chứng” gì khi để những tình trạng như thế xảy ra, hết năm này sang năm khác? Họ, thậm chí, còn cong lưng theo những “dự án chung” và cong lưỡi theo những lời lẽ mỵ dân như là “vận mệnh” và “tương lai chung”?

Nếu có một thứ “vận mệnh” và “tương lai” chung thì đây, chúng đã biểu lộ ngay trong bộ rễ khô quắc từ cây mít bị đầu độc của tôi nên, do đó, cái chứng bệnh trong dấu hỏi trên, rõ ràng, không chỉ là khiếm thị mà là khiếm tư duy.

Nó cách khác, thẳng thắn, là bị đui, bị mù tận trong óc, trong đầu.

Tham khảo:

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở cái xứ sở u Tây này cũng có quá nhiều tự do, thành ra cuộc sống có lúc thành bất cập, công đoàn ra sức nhiều lần đình công, yêu sách này kia, đòi tăng lương, đòi làm ít thời giờ hơn, đòi nghỉ hưu sớm v.v… nhất là công đoàn CGT vận chuyển công cộng người đi làm việc như métro, RER, tramway, bus…
Ngày 21 tháng 4 năm 1975, Tư Tưởng ghé ngang hậu cứ, dẫn ba thằng em: Bắc Hà, Th/úy Trọng và tui đi nhậu ở quán Thuỷ Tiên, gần Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn ngày xưa, trước khi dời vô Phi trường Vĩnh Long...
Trên đường đến phòng trưng bày tác phẩm nghệ thuật của Gertrude Stein, tôi bước đi với tâm trạng phấn khích của một người sắp gặp Ernest Hemingway. Nắng chiều Paris phản chiếu từ cửa sổ những quán cà phê xuống con đường đá cũ tạo thành bóng râm dài phía trước. Tiếng reo hò chen lẫn tiếng đàn từ mấy quán bar nhỏ nơi góc phố gây nên bầu không khí sôi động dội vào tâm trí tôi...
Tôi bán hàng giải khát trước cổng nhà máy, khách hàng là những công nhân, bộ đội và cán bộ trong nhà máy. Tôi là “mụ” bán hàng “phản động” luôn tơ tưởng đến chuyện vượt biên. “tri kỷ” của tôi có chị Ky buôn bán ở xa cảng miền Tây, nghề mới của chị sau cuộc đổi đời 1975, trước kia chị là nhân viên một ngân hàng quận Gò Vấp. Chị Ky là hàng xóm, hôm nào ghé quán tôi không chỉ để uống ly đá chanh, uống ly cà phê mà cũng là dịp cùng tôi tâm tình than thở cuộc sống dưới thời xã hội chủ nghĩa, mơ ước chuyện vượt biên...
Mạ xếp hạng chuyện học hành của con cái là quan trọng hàng đầu. Với tiệm sách và quán cà phê, Mạ đã quán xuyến, lo cho gia đình có cuộc sống sung túc, thoải mái một thời gian dài...
Nghe tin chú Nghĩa sắp cưới vợ, bà con trong khu phố xôn xao nửa tin nửa ngờ. Chuyện lập gia đình ai trưởng thành chả thế! Ấy vậy mà với chú Nghĩa thì chuyện này hơi lạ. Đến khi chú đem thiệp đi mời hẳn hoi vậy chắc chắn là sự thật rồi không còn nghi ngờ gì nữa!
Từ ngày về hưu non, hai vợ chồng tôi cứ lục lọi hết website này đến website khác để tìm nơi đẹp đi du lịch; sợ rằng sự hào hứng của tuổi trẻ sẽ không còn nữa, nên phải đi hết những chỗ mình ao ước từ hồi nhỏ đã đọc sách mà không có thì giờ và phương tiện để thực hiện...
Cơn mưa nhỏ lướt qua bầu trời từ bình minh cũng đã chấm dứt; một tia nắng vàng lách qua lùm cây sồi chui vào góc chuồng cừu lớn. Những chú cừu đực ngập trong rơm rạ của máng ăn buổi sáng vừa ngẩng đầu về phía tia nắng và kêu be be...
Bây giờ, việc đi về giữa Mỹ và Việt Nam thật dễ dàng. Nhưng vào thập niên 80, 90 người đi kẻ ở tưởng chừng là biệt ly mãi mãi. Bạn đã nói với tôi như thế trong nước mắt. Và với sự ngăn cấm của gia đình, với tuổi trẻ khờ dại nông nổi, họ đã lạc mất nhau. Để rồi suốt phần đời còn lại, nỗi đau vẫn còn là vết thương rưng rức. Tôi xin ghi lại câu chuyện tình của bạn, như là một lời đồng cảm...
Ngạn rời căn nhà đó và xuống đây theo đơn xin đi làm trong hảng thịt bò. Ngày Ngạn đi cũng buồn tẻ ảm đạm như ngày anh rời đất nước. Người vợ và hai đứa con tiễn anh ở bến xe buýt ''Con chó rừng''...
Chiếc ghe vượt biển nhỏ xíu, mỏng mảnh của chúng tôi vậy mà chất lúc nhúc đến hơn 80 thuyền nhân, chẳng khác nào một cái lá lạc loài trên đại dương mênh mông, không biết đâu là bờ bến. Đoàn người rời bỏ quê hương tụm năm tụm ba, rải rác khắp thuyền, co ro trong cái lạnh ngoài khơi xa tít tắp, đầu óc hoang mang với trăm ngàn ý nghĩ...
Hôm ấy, trên facebook Group của nhóm cựu thuyền/ bộ nhân ty nạn Thailand, có xuất hiện bài post của Đức, chụp hình vợ chồng Đức đang tiễn con gái tại sân bay Tân Sơn Nhất đi qua Dallas Hoa Kỳ định cư theo chồng mới cưới. Ôi, chàng Đức chung chuyến tàu của tôi. Nhiều người quen cũ vào để lại những comments chúc mừng, cũng là những người tôi biết mặt biết tên, tôi liền vào tham dự, góp vui...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.