Hôm nay,  

Sau 27 năm bang giao Mỹ-Việt, Hà Nội vẫn theo Nga và Trung Quốc

03/01/202317:29:00(Xem: 5038)

Chính luận

Conference_FulbrightVietnam_27thAnniversaryUSVNRelatìon_2022_08

Hội nghị ghi dấu 27 năm quan hệ Việt-Mỹ do Đại học Fulbright Vietnam tổ chức vào tháng 8/2022 (Screenshot – Fulbright University Vietnam).



Hoa Kỳ và Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1995, hai mươi năm sau khi cuộc chiến chấm dứt, khép lại một trang sử thù nghịch kéo dài nhiều thập niên trên chiến trường và chính trường ngoại giao. Cơ hội để Việt Nam và Hoa Kỳ nối lại quan hệ đã có không lâu sau khi cuộc chiến kết thúc, nhưng Hà Nội để mất cơ hội bắt tay với Washington vào những năm cuối thập niên 1970.

 

Sau chiến tranh, Mỹ muốn thừa nhận một nước Việt Nam thống nhất dưới sự lãnh đạo của Hà Nội, vì thế khi hai quốc gia là Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (Miền Bắc) và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (hậu thân của chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam hay còn gọi là Mặt trận Giải phóng Miền Nam, thay thế Việt Nam Cộng hoà sau ngày 30/4/1975) cùng xin gia nhập Liên Hiệp Quốc vào cuối năm 1975, Hoa Kỳ đã phủ quyết việc này, còn Trung Quốc, Liên Xô và Anh, Pháp đều ủng hộ. Đại sứ Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc Hoàng Hoa (Huang Hua) lúc đó đã ca ngợi cuộc chiến đấu lâu dài của nhân dân Việt Nam là “biểu tượng sáng ngời của chính nghĩa cách mạng chống đế quốc” trên toàn thế giới và ông nhấn mạnh hai dân tộc Trung, Việt đã là “đồng chí chiến đấu bên nhau.” (The New York Times 12/8/1975).

 

Năm 1976, Việt Nam chính thức thống nhất, Hoa Kỳ không còn phủ quyết đơn xin gia nhập Liên Hiệp Quốc và nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trở thành hội viên năm 1977. Cùng năm đó Tổng thống Jimmy Carter gửi đặc sứ Leonard Woodcock đến Hà Nội để bàn về vấn đề hơn hai nghìn tù binh và lính Mỹ còn mất tích (POW-MIA) và tương lai quan hệ hai nước. Khi đó ông Woodcock là trưởng văn phòng liên lạc của Hoa Kỳ tại Bắc Kinh, là cơ sở ngoại giao không chính thức của Mỹ được thiết lập sau chuyến đi lịch sử đến Trung Quốc của Tổng thống Richard Nixon năm 1972. Tháng 6 năm 1977 cũng đã có những cuộc gặp tại Paris giữa thứ trưởng ngoại giao Mỹ Richard Holbrooke và thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Phan Hiền. Phía Mỹ đề nghị hai nước nối lại bang giao trước, rồi tiếp tục thảo luận về quyền lợi hai bên gồm vấn đề MIA-POW và tái thiết miền Bắc. Hà Nội không đồng ý mở ra quan hệ ngoại giao mà nhất quyết đòi Mỹ trước hết phải viện trợ 3.5 tỉ đôla tái thiết, viện trợ thực phẩm và hàng hoá như Tổng thống Richard Nixon đã hứa trong thư riêng gửi Thủ tướng Phạm Văn Đồng sau khi ký Hiệp định Paris 1973.

 

Chính sách đối ngoại của Hà Nội khi đó là theo Liên Xô chống lại Hoa Kỳ và Trung Quốc. Tháng 6 năm 1978 Việt Nam gia nhập khối hỗ tương kinh tế Comecon gồm các quốc gia cộng sản Đông Âu do Liên Xô đỡ đầu. Đến tháng 11, Tổng Bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn Đồng qua Moskova gặp Tổng Bí thư Leonid Brezhnev và ký Hiệp ước Thân hữu với Liên Xô.

 

Những sự kiện trên khiến Washington thay đổi chính sách với Hà Nội, vì sau khi bốn bên ký Hiệp Định Paris 1973, Hoa Kỳ đã muốn giúp cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam cùng phát triển, qua thư riêng của Tổng thống Nixon gửi cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng với lời hứa viện trợ 3.5 tỉ đôla, cũng như thư riêng gửi cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Sau khi Việt Nam thống nhất đất nước, những nhà làm chính sách Mỹ cũng hy vọng rằng Việt Nam sẽ như cộng sản Nam Tư trong đối ngoại, không nghiêng về Liên Xô hay Trung Quốc, vì thế Hoa Kỳ đã đề nghị thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm 1977 và sẽ giúp Việt Nam phát triển kinh tế để dần đưa đến thay đổi, như Hoa Kỳ khi đó đang có chính sách giao thương với Trung Quốc từ khi mở ra quan hệ thương mại giữa hai nước.

 

Nhưng Tổng Bí thư Lê Duẩn đã không muốn có quan hệ ngoại giao với Mỹ và Hà Nội đã đứng hẳn về phía Liên Xô. Cuối năm 1978 bộ đội Việt Nam tiến vào Cambodia lật đổ chế độ Khmer đỏ của Pol Pot được Trung Quốc yểm trợ để dựng lên chính quyền Hun Sen thân Việt Nam.

 

Với cuộc xâm lăng Cambodia, Washington không còn ý định theo đuổi việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Hà Nội mà quyết định bang giao với Trung Quốc vào đầu năm 1979. Bắt tay được với Mỹ, Trung Quốc cắt đứt quan hệ và “dạy cho Việt Nam một bài học” bằng các cuộc tấn công quân sự vào các tỉnh biên giới phía bắc. Còn Washington ủng hộ Bắc Kinh bằng cách xiết chặt cấm vận đối với Việt Nam.

 

Sau mười năm chiếm đóng, đầu thập niên 1990 Việt Nam rút hết bộ đội về và đồng ý với giải pháp hoà bình cho Cambodia của Liên Hiệp Quốc.

 

Trước biến cố sinh viên Trung Quốc đòi dân chủ và bị đàn áp khiến hàng nghìn người thiệt mạng ở Thiên An Môn vào hè 1989 và cuộc “Cách mạng Nhung” kéo theo sự sụp đổ của các chế độ cộng sản ở Đông Âu, cùng sự tan rã của Liên Bang Sô Viết, Hà Nội và Bắc Kinh đã bỏ qua thù nghịch cũ và xích lại với nhau, cam kết bảo vệ thành trì còn lại của cộng sản trên thế giới.

 

Những năm đầu thập niên 1990 làn gió cải cách chính trị cũng đã thổi qua Việt Nam, với những tiếng nói của giáo sư Phan Đình Diệu, cựu Tướng Trần Độ, Uỷ viên Bộ Chính trị Trần Xuân Bách hay của nhóm Diễn đàn Tự do của giáo sư Đoàn Viết Hoạt, Cao trào Nhân bản của bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Nhóm Đà Lạt của tiến sĩ Hà Sĩ Phu cũng như các tiếng nói của luật sư Đoàn Thanh Liêm, giáo sư Nguyễn Văn Huy. Nhưng tất cả đã bị Hà Nội tìm cách dập tắt bằng cách khai trừ khỏi đảng hoặc áp đặt những bản án tù nhiều năm với tội danh “âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân” hay “tuyên truyền chống lại xã hội chủ nghĩa” cho những người đòi cải cách chính trị để có tự do dân chủ cho đất nước.

 

Tổng thống Richard Nixon đi Bắc Kinh năm 1972 với chính sách giúp Trung Quốc phát triển kinh tế, từ đó sẽ đưa đến các cải cách chính trị. Năm 1992 Hoa Kỳ có cùng viễn kiến ngoại giao đối với Việt Nam nên đã dần nới lỏng cấm vận và đến năm 1995 Washington và Hà Nội chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Sự kiện này cũng cho thấy Hà Nội không thể đi trước Bắc Kinh trong việc nối lại quan hệ với Hoa Kỳ, vì sau khi đồng ý giải pháp hoà bình cho Cambodia, lãnh đạo của Hà Nội và Bắc Kinh đã ký một văn bản hợp tác hỗ tương gọi là “Mật ước Thành Đô” vào năm 1990, qua năm 1991 thì Việt Nam và Trung Quốc nối lại bang giao, bốn năm trước khi Việt Nam và Hoa Kỳ thiết lập quan hệ.

 

Sau 27 năm có bang giao hai nước, giao thương Mỹ-Việt đã lên đến hàng trăm tỉ đôla mỗi năm và trao đổi, hợp tác về giáo dục, an ninh, quốc phòng, y tế, môi sinh ngày càng phát triển. Nhiều cán bộ, tướng tá cộng sản và con cháu cũng đã chọn Mỹ làm quê hương thứ hai.

 

Nhưng về đối ngoại chính trị, Việt Nam ngày nay vẫn đang theo đuổi các chính sách nghiêng về Trung Quốc và Nga. Tuy giới lãnh đạo Hà Nội luôn nhấn mạnh đến việc không liên minh với nước này để chống lại nước khác, gọi là “ngoại giao cây tre”, “ngoại giao đu dây”; nhưng trên thực tế Hà Nội vẫn e dè với Mỹ và vẫn đang đứng về phía Nga và Trung Quốc. Qua các lần bỏ phiếu tại Liên Hiệp Quốc liên quan đến cuộc chiến ở Ukraine cho thấy lãnh đạo Việt Nam không ủng hộ Mỹ và đã đi ngược lại với thế giới trong việc lên án Nga xâm lược.

 

Trong hai năm qua đã nhiều lần Washington đề nghị nâng cấp bang giao từ “quan hệ đối tác toàn diện” lên “quan hệ đối tác chiến lược” nhưng Hà Nội vẫn chần chừ.

 

Sau khi Tập Cận Bình được chọn làm lãnh đạo Trung Quốc thêm một nhiệm kỳ thứ ba, cuối tháng 10 vừa qua Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là lãnh đạo nước ngoài đầu tiên đến Bắc Kinh gặp gỡ Chủ tịch Tập. Bản thông cáo chung đưa ra sau chuyến thăm cho thấy Hà Nội ủng hộ các chính sách an ninh và phát triển toàn cầu của Bắc Kinh, từ Sáng kiến Vòng đai và Con đường (BRI, Belt and Road Initiative), Sáng kiến Kết hợp Toàn cầu (GNI, Global Network Initiative) và Sáng kiến Phát triển Toàn cầu (GDI, Global Development Initiative) là những chương trình đối ngoại kinh tế và an ninh của Trung Quốc mà Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược.

 

Hà Nội hiện nay không muốn – hay không thể do áp lực từ Bắc Kinh – đưa ra những chính sách đối ngoại thân thiết hơn với Mỹ dù Mỹ từ thời Tổng thống Barack Obama đã nhận ra một Trung Quốc mạnh về kinh tế đang mở rộng quyền kiểm soát an ninh toàn cầu nên có chủ trương xoay trục về Đông Á để bảo đảm an ninh khu vực. Khi Tổng thống Donald Trump làm lãnh đạo, Hoa Kỳ đã tuyên chiến thương mại với Trung Quốc dẫn đến quan hệ Mỹ-Trung như đóng băng từ 6 năm qua.

 

Đã có những khảo sát ý kiến cho thấy dân Việt có nhiều cảm tình với Hoa Kỳ hơn là với Trung Quốc. Hà Nội sẽ có những chính sách phù hợp với lòng dân, hay vẫn theo ý đảng, chọn Trung Quốc dựa trên “4 tốt” là: “láng giềng tốt, bạn bé tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” và với phương châm “16 chữ vàng” là “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” mà hai Đảng Cộng sản đã đồng thuận với nhau?

 

Tháng 5 vừa qua Thủ tướng Phạm Minh Chính có chuyến đi Mỹ, trong khi chờ gặp ngoại trưởng Antony Blinken, các thành viên của đoàn, gồm cả tướng Tô Lâm đã tán chuyện với nhau. Ông Chính bênh vực cho quan điểm ủng hộ Nga xâm lăng Ukraine của Việt Nam với câu nói: “Rõ ràng, sòng phẳng. M.. n.., sợ gì”. Đoạn phim này đã được đưa lên trang mạng của bộ ngoại giao Hoa Kỳ, trước khi được gỡ xuống.

 

Hà Nội muốn Tổng thống Joe Biden đến thăm Việt Nam. Nhưng đó là hy vọng xa vời vì sau những lần chuyển lời mời và nhiều vận động ngoại giao, một cuộc điện đàm giữa Tổng thống Joe Biden và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vẫn chưa diễn ra. Với tình hình quan hệ hiện nay, lãnh đạo Mỹ có lẽ không sang thăm Việt Nam cho đến sau bầu cử 2024.

 

Quan hệ Mỹ-Việt đang chậm lại. Nhiều công ti Mỹ đã, đang rời Trung Quốc và tìm kiếm các quốc gia khác để thiết lập công xưởng. Với chính sách ngoại giao theo Trung Quốc và Nga như đã được Hà Nội thể hiện, liệu Việt Nam có phải là lựa chọn bền vững cho các công ti Hoa Kỳ?

 

Chọn theo Nga và Trung Quốc, Hà Nội đang đánh mất những cơ hội đưa phát triển kinh tế của Việt Nam lên tầm cao để mau tiến bộ bằng Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan.

 

Bùi Văn Phú

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nelson Mandela (1918-2013), quán quân Giải Nobel Hòa Bình năm 1993, nhà hoạt động chống chế độ phân biệt chủng tộc bị tù 27 năm, và là vị tổng thống người da đen đầu tiên được bầu trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên của nước Nam Phi vào năm 1994, đã từng nói rằng, “Giáo dục là vũ khí có sức mạnh nhất mà bạn có thể sử dụng để thay đổi thế giới.” Hơn ai hết, Nelson Mandela là người không những hiểu rõ giá trị thực sự của nền giáo dục mà còn áp dụng kiến thức đó trong việc làm thay đổi đất nước và dân tộc Nam Phi của ông. Ông đã dẫn dắt Nam Phi từ một quốc gia ngập chìm trong bóng tối của thù hận, phân hóa và lạc hậu để vươn mình lên trong ánh sáng của đoàn kết, hòa bình và phát triển.
Hoa Kỳ đã tấn công Iran. Chỉ vài ngày sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump gợi ý rằng có thể trì hoãn bất kỳ hành động quân sự nào của Mỹ trong nhiều tuần, ông tuyên bố vào ngày 21/6 rằng máy bay Mỹ đã tấn công ba địa điểm hạt nhân của Iran, bao gồm cả cơ sở bị chôn sâu ở Fordow. Các quan chức Iran xác nhận rằng các cuộc không kích đã diễn ra. Mặc dù ông Trump khẳng định rằng các địa điểm này đã bị "xóa sổ", nhưng vẫn chưa rõ các cuộc tấn công đã gây ra thiệt hại gì.
Jena, Louisiana – một thị trấn 4.000 dân lọt thỏm giữa rừng thông – nơi bảng hiệu đầu làng ca ngợi đội bóng nữ vô địch của bang, nhưng cách đó chỉ ba dặm, sau hàng rào kẽm gai và lời Kinh Thánh treo lủng lẳng, là Trại Giam ICE đồ sộ - do GEO Group điều hành. Nơi đây hiện giam giữ hơn 1000 người – phần lớn chưa từng bị kết tội hình sự, nhiều người chỉ là dân đang xin tị nạn hợp pháp, số còn lại chưa kịp hiểu vì sao mình bị bắt...
Tại sao Trump lại vội vàng ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và chính sách mới như vậy?AI: Có hai lý do.Đầu tiên, tổng thống vội vàng vì nếu có bất kỳ điều gì sai trái xảy ra vào đầu nhiệm kỳ, ông có thể đổ lỗi cho chính quyền trước và nhà nước (những người làm việc cho ông). Nếu để lâu, những điều sai trái sẽ là trách nhiệm của ông, và Trump không thích chịu trách nhiệm.Thứ hai, ông biết trong hai năm nữa, đảng Cộng hòa sẽ mất quyền kiểm soát Hạ viện trong cuộc bầu cử quốc hội và ông sẽ trở thành què quặt. Ông cần phải hoàn thành mọi việc ngay bây giờ. Ông muốn tập trung vào các doanh nghiệp của mình trong hai năm cuối nhiệm kỳ tổng thống,
Bao dung – một từ nghe thật thanh thoát. Âm tiết của nó cũng thật bình dị, thốt ra từ thanh quản nhẹ nhàng không cần uốn nắn, như cỏ mọc từ đất, như mưa từ trời. Vậy mà ngày nay, trong một xã hội đứng đầu thế giới về tự do, về quyền con người, hai từ “bao dung” bỗng dưng khó tìm. Chính trong tháng Sáu này, tháng gọi là Pride Month, những câu chuyện thương tâm về cộng đồng LGBTQ+ bị chìm trong bóng tối. Có lẽ trong sáu tháng qua, nước Mỹ có quá nhiều những phát ngôn, biến cố, thay đổi mà đối với truyền thông, đó là điều cần phải nói, và nói mỗi ngày. Hoặc cũng có lẽ, trong một chính quyền đang nỗ lực bác bỏ DEI, đóng chặt cửa với di dân, thì truyền thông cũng không dám đào sâu về những gì thuộc về cộng đồng yếu thế. Cho dù, đó là một án mạng lấy đi cuộc sống một con người, hoặc chấm dứt những nguyên tắc vốn đã được nhìn nhận hàng thập kỷ.
“Nơi nào người ta bắt đầu đốt sách, nơi đó người ta rồi cũng sẽ thiêu người.”— Heinrich Heine. Câu nói nổi tiếng từ thế kỷ XIX của thi sĩ Heinrich Heine, tưởng chỉ là tiếng vọng u ám của bóng ma lịch sử nhưng hôm nay, giữa thế kỷ XXI, lời cảnh báo ấy lại trở nên rúng động – ngay trên đất nước từng được xem là ngọn hải đăng của tự do học thuật. Oái oăm thay, những dấu hiệu đầu tiên của bóng tối không phát xuất từ một chế độ độc tài phương Đông, mà từ chính nước Mỹ – xứ sở từng được xem là ngọn hải đăng của giáo dục tự do.
Donald Trump không đội vương miện, nhưng ông đã luyện được cách bắt cả một đảng chính trị quỳ gối. Và cũng như các ông vua cổ đại, ông không cần luật – ông chính là luật. Nếu Toà Tối cao chống đối, ông sẽ gọi đó là “phản quốc.” Nếu truyền thông phản biện, ông gọi đó là “tin giả.” Nếu có cuộc bầu cử mà ông thua, ông sẽ bảo đó là “gian lận.” Và nếu có ai dám nói điều gì khác, ông sẽ gửi quân đội tới – như ông đã làm ở Los Angeles, để dạy cho đám biểu tình “hỗn xược” ấy một bài học về dân chủ... bằng đạn cao su và lựu đạn cay.
Ryanne Mena là một nhà báo đưa tin về tội phạm và an toàn công cộng cho Southern California News Group. Thứ Sáu, 6/6, ngày đầu tiên diễn ra cuộc biểu tình phản đối chính sách nhập cư của chính quyền Trump, chống lại các cuộc bố ráp của Cảnh Sát Di Trú (ICE), Mena đã có mặt ngay trên đường phố Los Angeles, bên ngoài Trung tâm giam giữ Metropolitan,L.A. Tại đây, cô bị trúng đạn hơi cay ở đùi bên trái Ngày kế tiếp, nữ phóng viên này bị trúng đạn cao su của các đặc vụ liên bang bắn vào đầu, bên phải, cách tai của cô chỉ khoảng 1 inch. Những tấm ảnh Mena và các đồng nghiệp khác bị thương lan tỏa khắp Instagram, Twitter.
Giữa lúc Tòa Bạch Ốc đang tìm mọi cách cứu vớt mối quan hệ Trump-Musk thì các cựu quan chức an ninh y tế cho biết chính quyền Trump hủy bỏ $766 triệu trong các hợp đồng nghiên cứu phát triển vaccine mRNA để chống lại các loại đại dịch cúm. Với họ, đây là đòn giáng mới nhất vào quốc phòng quốc gia. Họ cảnh báo rằng Hoa Kỳ có thể phải nhờ đến lòng trắc ẩn của các quốc gia khác trong đại dịch tiếp theo. ABC News dẫn lời Beth Cameron, cố vấn cao cấp của Trung tâm Đại dịch thuộc Brown University Pandemic Center, và là cựu giám đốc Hội đồng an ninh quốc gia Tòa Bạch Ốc, cho biết: “Các hành động của chính quyền đang làm suy yếu khả năng phòng ngừa của chúng ta đối với các mối đe dọa sinh học. Việc hủy bỏ khoản đầu tư này là một tín hiệu cho thấy chúng ta đang thay đổi lập trường về công tác chuẩn bị ứng phó với đại dịch. Và điều đó không tốt cho người dân Mỹ.”
Ăn mặc đẹp là nói về thời trang. Lịch sử “thời trang cao cấp” thuộc về truyền thống của Pháp: Haute couture từ thế kỷ 17. Đến thế kỷ 19, ngành thời trang cao cấp đã phát triển thành một phương tiện kích thích tăng trưởng trong nền kinh tế Pháp. Trong thời gian này, các nhà tạo mốt như Dior, Chanel và Balenciaga đã được thành lập. Tuy nhiên, vào thế kỷ 20, ngành thời trang cao cấp ở Pháp đã mất đi phần lớn sự huyền bí của mình và phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ các thị trường quốc tế khác, đặc biệt là ở Ý và Hoa Kỳ. Sự thành công của bối cảnh thời trang quốc tế và tiềm năng lợi nhuận đã thu hút sự chú ý của các tập đoàn hàng xa xỉ, được tiên phong bởi ông trùm kinh doanh người Pháp và người sáng lập LVMH Bernard Arnault vào năm 1987. Ngày nay, các tập đoàn này vẫn tiếp tục duy trì hoạt động lịch sử của các nhà thời trang xa xỉ thông qua việc bổ nhiệm các giám đốc sáng tạo, những người diễn giải và chỉ đạo triết lý thiết kế của thương hiệu.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.