Hôm nay,  

Thương Nhớ Mười Hai

06/02/202010:28:00(Xem: 3381)

Đây là tựa đề một tác phẩm văn học rất dễ thương của nhà văn Vũ Bằng. Ông bắt đầu viết từ tháng Giêng 1960, tiếp tục viết 1965, và hoàn thành vào khoảng 1970 – 1971. Hơn mười năm cho một quyển sách, có thể là dòng suy tưởng của tác giả bị gián đoạn do công việc mưu sinh, có thể tác giả chưa nắm bắt được sự rung cảm của riêng mình.


“Thương Nhớ Mười Hai”, tức là niềm thương nhớ, xúc cảm của tác giả trong mười hai tháng Âm lịch, xúc cảm của “những người thiên lý tương tư” khi vào miền Nam vẫn nhớ nhung về phương Bắc. Tác giả ghi lại tâm tư mình với những cung bậc tuyệt vời của người Hà nội, người xứ Bắc thanh lịch nỗi tiếng một thời xa xưa liên quan tới cây lành trái ngọt của vùng miền qua từng tháng.

Có một điều, người viết muốn chia xẻ với bạn đọc là chúng ta không có tháng Một, và cũng không có tháng Mười Hai, mà chỉ có tháng Giêng, và tháng Chạp như trong ca dao :


Tháng Chạp là tháng trồng khoai.

Tháng Giêng trồng đậu, tháng Hai trồng cà.


Tháng Chạp, tháng Giêng quá đặc sắc, dễ thương, như : “Ra Giêng anh cưới em”, hay “Tháng Chạp anh về quê ngoại”..v..v..


“Thương Nhớ Mười Hai” của chúng tôi là nỗi niềm trong tháng 12/2019 này đây. Tháng Mười Hai với những kỷ niệm đầy vơi trong cuộc đời lao đao, chìm nổi của một người không còn trẻ nữa. Tháng Mười Hai Dương lịch với ngày Lễ Giáng Sinh rộn ràng, và ngày Tết Dương lịch bắt đầu cho một năm mới. Trẻ nhỏ thêm một tuổi lớn, và người già đăm chiêu thêm một tuổi già.


Đầu tháng Mười Hai, ngày 07/12/2019, chúng tôi mất đi người huynh trưởng của chương mục Viết Về Nước Mỹ : Anh Nguyễn Văn Tân, bút hiệu Bồ Tùng Ma. Ông là người nhiều tuổi nhất trong nhóm Việt Bút chúng tôi, và cũng là người ít lời nhất. Ông ít cười. Một bạn trẻ nói với ông :


-Chú Ma, sao chú lại không cười vui khi chụp ảnh với nhóm. Chú cứ coi cô SL kìa, lúc nào cũng cười tươi như đang còn tuổi thanh xuân !


Ông trả lời :


-Tại chú cười không đẹp như cô SL.


Một câu chuyện nhỏ, nhưng đó là một kỷ niệm lớn trong lòng tôi đối với anh Tân.


Vẫn biết rằng “Sống gửi thác về”, nhưng sự ra đi của ông cũng gieo trong lòng tôi nhiều sự xao xuyến. Rất nhiều tháng ông ở trong bệnh viện trong trạng thái coma, vì ông bị stroke nặng. Chúng tôi vẫn thầm bảo nhau “sợ ông không qua khỏi”. Dù tinh thần đã chuẩn bị, ý thức đã sẵn sàng, nhưng khi được tin ông giã từ, chúng tôi không khỏi bàng hoàng, tiếc nuối. Một văn hữu trẻ đã có bài thơ “Tiễn Anh” :


Phũi sạch nợ duyên, kiếp vô thường

Về miền Cực Lạc, cõi Tây Phương

Anh đi, bao kẻ sầu, đau, tiếc

Người ở trăm chiều mộng, nhớ, thương


Thong dong rồi bước trần gian khổ

An lạc dừng chân chốn Niết Bàn

Thân ái chào Anh lìa cõi tạm

Bằng hữu nghiêng mình bên khói hương.

(B.T)


Chúng tôi đã “thân ái chào Anh”, và “nghiêng mình tưởng niệm” Anh. Dù Anh không còn trên trần thế này, nhưng ở thế giới nào khác, chúng tôi ước mong Anh mãi yên vui. Chúng tôi chào Anh, người huynh trưởng đáng yêu, người bạn văn đầm ấm, và trên hết, một người lính Việt nam Cộng hòa suốt đời giữ gìn được bản chất tốt đẹp của người sĩ quan Hải quân trong chiến tranh nghiệt ngã.


Cũng trong ngày hôm sau 08/12, gia đình chúng tôi trân trọng kỷ niệm ngày mất của Mẹ tôi, Người đã rời xa chúng tôi đã sáu năm nay. Kỷ niệm ngày giỗ của Bà năm nay, chúng tôi về chùa Giác Lâm ở thành phố Philadelphia – Pennsylvania, cúng dường Tam bảo, hồi hướng ân phước cho Bà. Chúng tôi không tổ chức nghi thức rườm rà, chỉ có hoa, trái, và cúng cơm chay. Chúng tôi nghĩ rằng Mẹ chúng tôi đã về Trời, vì lúc còn trên cõi tạm này, Bà là người phụ nữ rất đổi hiền dịu, không làm điều gì phật ý một ai. Mẹ tôi sống thọ ở tuổi chín mươi ba, đó là ơn phước từ Trời đã ban cho chúng tôi. Tôi chỉ có một thoáng ân hận vì hoàn cảnh phải bỏ Mẹ mà đi dong ruỗi xứ người thoắt đã gần ba mươi năm, và lúc Bà đi tôi đã thương cảm viết ra hai câu đối để thờ :


Một chuyến đi xa, Má đã yên vui miền Tiên cảnh

Bao lần đứng lại, con còn lận đận với nhân gian.


Cũng trong tháng Mười Hai này, ngày 17/12 là ngày kỷ niệm bốn mươi lăm năm nghĩa chồng tình vợ của chúng tôi. Ngày 17/12/1974 chúng tôi cưới nhau, và chỉ bốn tháng sau, miền Nam mất, và tháng 6/1975 chồng tôi bị tóm vào trại cải tạo. Ngày xưa khi Từ Hải chia tay Thúy Kiều, văn hào Nguyễn Du đã viết hai câu thơ nỗi tiếng :


Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)


Đó là hoàn cảnh của chúng tôi. Cám ơn Trời, Phật, chồng tôi đã trở về Saigon sau gần mười năm biệt xứ. Trong thời gian xa cách đó, thỉnh thoảng mẹ anh ấy cứ nói với tôi :


-Bây giờ đã hơn năm năm rồi, không biết sự thể ra sao, tuổi xuân của con thì có hạn, nếu có ai ý hợp tâm đầu, con có thể bước thêm bước nữa!


Tôi choáng váng với câu nói đó của mẹ chồng. Bà không “đón gió” đâu, tôi biết vậy, vì bà là người miền Nam, rất hiền lành, chất phác, cả đời không ra khỏi nhà gia đình chồng, có thể nói không ra tới chợ của địa phương nữa mà…Tôi không nói gì, chỉ cười nhẹ, không trả lời câu nói của bà. Tôi làm sao làm được điều bà nói, vì bên nách còn có đứa con gái thật dễ thương năm tuổi. 

Khi anh vào trại tập trung, tôi đã mang bầu gần sáu tháng. Phải chăng đứa nhỏ là sợi dây vô hình cột chặt tình cảm của hai vợ chồng tôi!!? Hơn nữa, tôi là cô giáo, được lớn lên trong một gia đình lễ nghi, phép tắc, không thể đi dọc về ngang.

Sinh thời, trong vấn đề hôn nhân của các con, ba tôi thường nói :


-Ba cho chọn chứ không cho đổi.


Tức là ba tôi chủ trương không có việc thay chồng đổi vợ. Điều này quá khó trong thời đại bây giờ ở các nước phương Tây, và ngay cả ở trong nước. Cám ơn cuộc đời! anh em chúng tôi bây giờ cũng đã già, và đã làm đúng với mong muốn của ba tôi, dù trong đời sống vợ chồng làm sao tránh khỏi va chạm, xích mích, chẳng hài lòng về nhau? Có lẽ nhờ ân đức của cha mẹ, chúng tôi chẳng giàu có gì đâu, nhưng vẫn bình an trong đời thường có nhau. Ba tôi mất đã lâu, nhưng dáng hình, lời dạy dỗ của ông vẫn còn hiện hữu trong tâm trí các con. Trong bài thơ ngắn nói về ba, có đoạn tôi đã viết :


…Ba gieo nhân đức cho nhân thế

Để lại bình an cho các con.



Bây giờ đọc giả cho phép tôi nói một chút về “lão gia của tôi”.

Chúng tôi gọi chồng là “lão gia” là vừa có chút châm biếm, giễu cợt, vừa có chút trân trọng theo kiểu phim Tàu ngày xưa. 

Lão gia của tôi đã bảy mươi ba tuổi rồi, nhiều bệnh, đã nghỉ hưu từ ba năm nay. Cả ngày ông chỉ quanh quẫn vườn sau sân trước, chăm bón cây cảnh trong  những ngày Hè. Mùa Đông lạnh dữ dội, ông chỉ tiêu khiển bằng cách đi tập Gym. Vì tôi phàn nàn cái bụng nước lèo nên ông lo tập tành mỗi ngày vài tiếng đồng hồ. Than ôi ! người đi bên cạnh cuộc đời mình ngày xưa đẹp trai, oai phong, bây giờ rệu rã vì bệnh tật, vì tuổi già! Cuộc đời như đại dương mà mỗi người chúng ta chỉ giống là chiếc thuyền nan, biết đâu là bến bờ, biết nông sâu thế nào mà dò trong, lóng đục ? Những cặp vợ chồng già như chúng tôi họa hoằn lắm mới được ở chung với con, cháu, còn đa số ở riêng nương tựa nhau mà sống cho “qua ngày, chờ ngày.. qua đời”


Thưa Quý bạn đọc,

Tôi không bi quan đâu, vì tôi nhận ra rằng chúng tôi đang có bonus từ Thượng Đế nên ngày nào còn yên vui là ngày ấy cảm ơn cuộc đời này. Làm sao chúng ta biết được ngày mai !!?? (No-body knows tomorrow).

Tình yêu không còn hực hỡ như tuổi thanh xuân, nhưng còn là tình nghĩa, là sự trông cậy, nương tựa lẫn nhau. Tôi giống như đang ở trong chiếc thuyền nan giữa biển lớn, mưa gió bất kỳ, tôi làm sao giữ nỗi tay chèo !!??

Đã nói rằng tôi đã buông bỏ hết mọi ước mơ thì chưa đúng lắm. Tôi vẫn còn mơ ước bên kia bờ đại dương quê hương Việt nam có được Độc lập, dân mình có được Tự do, nhưng biết đến bao giờ !!??


Tháng Mười Hai Dương lịch ở miền Đông Bắc này, mùa Đông thật khắc nghiệt. Thời tiết lạnh lẽo. bầu trời u ám, mưa dầm. Nhiệt độ có khi xuống 0oF. Mấy hôm nay sáng sớm 17o. Gió lạnh buốt, nhưng có đôi ngày cũng có chút nắng mong manh.

Với cảm xúc về mùa Đông giá lạnh nơi đất khách quê người này, xen lẫn với tình thương yêu vô bờ bến đối với các em tôi, dâng ngập tự đáy tim, tôi đã cảm tác một bài thơ để ghi lại tình cảm chan chứa này với hai câu kết thật ưu ái :


…Vào Đông lạnh cả đất đất trời

Gửi em chút nắng thay lời cảm ơn.

(Có Em – SL. 2006)

 

 Sự ấm áp đó là những ngày phép của đứa cháu từ Base Huachuca-Arizona trở về nhà sau gần một năm ở quân trường. Cháu trai này tiếp tục bước chân của cha chú thời xa xưa, trở thành người sĩ quan của Quân lực Hoa Kỳ.


Thời gian qua nhanh như giòng thác đỗ. Ngày gia đình chúng tôi rời Saigon, chú nhóc này chỉ vừa tròn tháng tuổi. Mới đó cháu tôi đã gần ba mươi tuổi đời. Trong quân phục ngày về thăm nhà, tôi không kìm được nỗi xúc động khi gặp cháu mình.

Tôi xúc động vì hình ảnh người lính Việt nam Cộng hòa năm mươi năm trước của anh tôi, các anh, các bạn của tôi, của chồng tôi nay lại được tái hiện ở thế hệ thứ hai là đứa cháu ngày nào tôi ẵm ngữa trên tay, lúc bịn rịn giã từ mọi người theo chồng đến xứ người :


Lịch sử bây giờ đang lập lại

Giữa miền Đông Bắc xứ Cờ Hoa.


Đúng vậy, hình ảnh người lính Mỹ gốc Việt luôn là niềm hãnh diện, nỗi xúc động âm thầm trong tâm hồn tôi. Cháu tôi đang nói lời “Thank you America” cho cả gia đình tôi, đang ở Mỹ cũng như những người thân còn ở lại quê nhà.


Tháng Mười Hai với đèn, hoa ngập lối, với hàng triệu trái tim hớn hỡ đón chờ ngày Chúa Giáng Sinh. Đây là ngày Lễ của thế giới, không chỉ là của các tín đồ Thiên Chúa :


Vinh danh Thiên Chúa trên trời

Bình an dưới thế cho người Thiện tâm.


Lời của Chúa Jesus mãi còn đọng lại trong trái tim già nua, héo hắt của tôi, bây giờ, và mãi mãi : “Ta đi, ta để lại Bình an cho các con”.


Ngày Lễ Giáng Sinh là ngày của Bình An, đầm ấm, sum họp. Đó cũng là ngày Lễ của Tha thứ, Chia sẻ, Cảm thông để người, và người biết thương nhau, dẹp bỏ hết những ganh ghét, tị hiềm. Đây là ngày Lễ của con tim mở rộng chào đón Chúa giáng trần, chào đón tình yêu của nhân loại.


Tháng Mười Hai sẽ qua, năm mới Dương lịch 2020 sẽ đến. Chúng ta chờ mong những điều May mắn, Tốt đẹp cho hòa bình thế giới, trong đó có nền dân chủ, tự do cho nhân dân Việt nam.

Ngày tháng sẽ trôi xuôi. Hiện tại sẽ trở thành quá khứ. Tất cả rồi sẽ trở thành kỷ niệm. Ký ức của mỗi con người cảm nhận về tháng Mười Hai ; tháng cuối cùng của một năm ; với những vui buồn, hồi ức, nhớ nhung, tưởng niệm. Người viết chỉ mong được san sẻ chút lòng bâng khuâng trong mùa Đông lạnh giá đến sững sờ.


Vui buồn trong tháng Mười Hai sẽ khép lại như cánh màn nhung sau buổi diễn, và sân ga cuối cùng của cuộc đời người già như chúng tôi đang thấp thoáng đằng kia. Con tàu đêm sẽ đến sân ga đó, giờ khắc không bao giờ báo trước với một ai !


Với tất cả lòng yêu thương, và quí trọng, người viết xin được phép thân chúc mọi người trên thế giới được Bình An, đầm ấm mùa Giáng Sinh, và năm mới 2020, với những tin vui mới về chính trị, kinh tế trong xã hội loài người tràn trề tình thương yêu.


Cuối bài, xin thêm một lần cảm ơn nhà văn Vũ Bằng với “Thương Nhớ Mười Hai” của ông, đã là nguồn cảm hứng cho người viết trong tháng Mười Hai 2019 với  “..Những buổi mây chiều gió sớm, sầu biệt ly vơi sáng đầy chiều..” (1).


(1) Trích trong “Thương Nhớ Mười Hai” Vũ Bằng.



Song Lam.

Mùa Giáng Sinh.

Cherry Hill-NJ, Tháng 12/2019.         


    

 

Ý kiến bạn đọc
07/02/202017:59:16
Khách
Đọc bài này xong thấy buồn, bâng khuâng. Viết rất hay. Cám ơn bạn, Song Lam.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
Cuối tháng Ba, những cơn gió nóng tràn về thành phố. Một hai trận mưa lạc loài đến sớm rồi thôi. Không khí ngột ngạt. Mùi đất nồng khó chịu. Như một cô gái uể oải trong cơn bệnh, thành phố trông mệt mỏi, rạc rời. Đoan đi vào Câu lạc bộ của trường. Bình thường, cứ đến thứ Sáu là không khí chuẩn bị cho chiều văn nghệ thứ Bảy lại nhộn nhịp. Nhưng hôm nay, như có một cái gì kéo mọi thứ chùng xuống. Chị Thuận, người phụ trách Câu lạc bộ, mỉm cười khi thấy Đoan, nhưng là một nụ cười kém tươi. Chị vẫn câu chào hỏi thường lệ: “Em uống gì không?” “Dạ, chị cho em nước chanh.” Chị Thuận pha ly nước chanh đặc biệt, nóng, ít đường, mang đến để trước mặt Đoan, và kéo ghế ngồi xuống bên Đoan. Hình như không có gì để bắt chuyện, chị Thuận nhìn ra sân, nói nhỏ:
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.