Hôm nay,  

Chú Giải Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký (33-35)

19/11/201600:01:00(Xem: 4527)

Chú Giải

Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký

 

Nguyễn Văn Sâm
   

 

(Chuyện 33-35. Sẽ đăng tiếp)

 

Quyển Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký là quyển sách bán chạy nhứt của nhà văn nầy. In tới lui nhiều lần, năm 1914 đã in tới ngàn thứ chín. Những lần in không đề tái bản lần thứ mấy và in bao nhiêu thì phải nói là cơ man.

Tại sao quyển truyện mỏng nầy lại có sức hấp dẫn như vậy? chính là nhờ ông Trương khi viết đã đưa ra hai mục tiêu và đã làm gần như trọn vẹn

1. Giáo dục về luân lý. Người đọc cẩnthận sẽ thấy những bài học tốt cho cách ở đời, cách xử thế, ứng xử trong trạng huống cần thiết, đề phòng kẻ xấu, chớ cả tin..

2. Dùng tiếng Annam (Việt Nam) ròng. Trong toàn quyển chuyện không sự kiện làm văn chương, mặc dầu điều nầy không hẵn là xấu, mà chỉ có sự sử dụng tiếng Việt thường nhựt, với những từ ngữ của người bình dân. Người đọc đón nhận cũng vì lẽ đó.

Ngoài ra vì tác giả khéo léo cho thấy sinh hoạt của dân chúng có thể nói là cuối thế kỷ 19 nên đây là nguồn tư liệu dồi dào về những chi tiết của cuộc sống dân ta mà gần như ngày nay không thể thấy (ăn ong, ăn bánh lớ, cái chày mổ, sư làm đám, hầm bắt cọp, bắt chồn, tục mai dong, tục ở rể…).

Sách viết hơn trăm năm trước, bằng chữ của dân miền cực Nam nên chắc chắn là khó hiểu với phần đông người đọc hiện giờ. Sự chú giải những từ nầy là cần thiết nên quyển sách Chú Giải Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký có lý do để ra đời.

  

Victorville, CA, tháng 11, 2016

 

 blank

33. Anh làm quan, em làm dân.

 

     Hai anh em ruột đi học với nhau một thầy, tháng ngày sôi kinh nấu sử[1] với nhau. Tới kỳ ra đi thi, người anh đậu được làm quan trấn nhậm nhằm chỗ người em ở. Mà vô tình, chẳng có đoài hoài tời lui thăm viếng gì hết thảy. Thiên hạ xầm xì xầm xả[2] với nhau: Lạ! Sao anh em ở với nhau như mặt trời mặt trăng[3]? (tr. 52)

     Người em mới bỏ chỗ ấy, mà xuống dưới rừng sác[4] mà ở. Thì may[5] người anh làm quan, đi vãng dân[6] tại chỗ ấy, mới ghé lại nhà, lấy viết, viết bốn câu thơ mà hỏi:

Tư bề sóng bổ xao.

Ở đây nhờ lộc nào?

Con cái đặng mấy đứa?

Sưu thuế đóng làm sao[7]?

     Người em lấy viết, viết lại bốn câu nầy:

Tư bề sóng bổ xuyên.

Ở đây nhờ lộc thuyền.

Vợ xé gai chằm lưới.

Chồng đánh cá đổi tiền[8].

 

 

34. Thằng chồng khờ, ngồi ăn có dây dụi.

 

     Có hai vợ chồng. Vợ thì lanh lợi tử tế, còn chồng thì có chứng láu ăn[9]. Hễ ngồi lại lua láu[10] ăn hối ăn hả. Cho nên vợ nó lấn lướt[11] nó đặng.

     Bữa kia có anh em bạn tới nhà chơi, nó nói với vợ nó: Có khách, mầy phải thưa phải dạ cho tử tế, kẻo người ta chê cười. Vợ nó ừ. Một lát nó làm bộ xăng văng[12] chạy vô hối dọn cơm, thoắng đi mà ăn[13]. Con vợ thấy nó đặng nề[14] làm rộn bộ[15] quá, ních chiếc đũa bếp lên đầu[16] nó một cái cốc. (tr. 53)

     Nó giả đò nó đánh vợ: Tao đã biểu cho săn tay[17] nghé! Chậm sao hơn là rùa!

     Khách nghe mới la: Cái anh thì thôi, để thủng thẳng cho chỉ mần! Đói khát gì mà hối dữ vậy?

     Lộn ra ngồi cầm khách một chặp lại chạy vô. Nó lại đánh cho nữa[18]. Đến chừng gần bưng cơm, vợ nó ngắt nó vô dặn: Nầy! Có người ta, ăn thì phải cho tề chỉnh, đừng có giữ theo chứng cũ gắp lia băng cung[19] mà xấu hổ, chúng cười. É, mà anh hay quên lắm! Để tôi cột cái dây dụi, hễ chừng nào tôi giựt cái dây dụi, thì gắp thì ăn.

     Xong xả rồi, ra mời anh em ngồi lại. Ban đầu còn giữ, khi vợ nó nhắp[20], thì nó và nó ăn. Vợ nó mắc xớ rớ trong bếp. Rồi thì con gà chạy ngang qua, mắc dây giựt lia! Nó ở ngoài tưởng vợ nó giựt lia, bỏ đũa xuống, hai tay bốc thuồn vào họng. Khách ngồi sửng, không biết làm sao, mà nó làm dị cục làm vậy.

 

 

35. Đại Trượng Phu, Chí Quân Tử với Phú trưởng giả.

 

     Thuở xưa kia có hai người anh em bạn thiết, một người tên là Đại Trượng Phu, người kia tên là Chí Quân Tử. Anh trước giàu có, anh sau thì nghèo. Năng tới lui chơi bời với nhau. (tr. 54)

     Hai vợ chồng anh Đại Trượng Phu thấy anh kia nghèo cực, thì nói: Thôi anh gnhèo không có vốn mà buôn bán, có muốn lấy năm ba trăm chi đó thì lấy, mà dùng làm vốn đi buôn cho té ra một hai đồng, mà chi độ thê nhi.

     Anh Chí Quân Tử nghĩ đi nghĩ lại, mình lấy thì được đó, hai vợ chồng cũng tử tế có lòng thương, mà mai sau rủi có lỗ hay là điều nào, thì biết lấy chi mà trả. Nếu không dám lãnh, nghèo thì chịu vậy: Cám ơn anh chị có lòng với em út! Tôi tính cũng không buôn bán chi, mà hòng lấy của anh chị khó lòng.

     Vợ chồng Đại Trượng Phu, nhà thôi đã đủ đồ, chẳng thiếu vật chi, đồ nữ trang cũng hiếm chẳng thiếu gì, mới tính với nhau lấy vàng đem cho thợ khéo, kéo chỉ ra đậu một con rùa vàng để chơi. Đưa năm lượng.

     Cách ít lâu, Quân Tử lại nhà chơi. Đại Trượng Phu, mới hỏi:

     _Anh đã có thấy rùa vàng hay chưa?

     – Rùa vàng hiếm chi, thiếu gì?

     – Không, không phải rùa vàng ngoài đồng đâu. Cái nầy là rùa vàng làm bằng vàng thật.

     – Cái thì chưa thấy.

     Đại Trượng Phu mới biểu vợ đi lấy đem ra coi. Coi rồi để trong cái dĩa, ngồi uống rượu, nói chuyện hoài, rót thêm rót thêm hoài, hai anh em nằm ngủ quên đi. (tr. 55)

    Thằng con trai anh Đại Trượng Phu đi học trường xa, chạy về thăm nhà. Thấy con rùa tốt gói trong khăn cầm, đem đi chơi. Đến khi tỉnh dậy, quên lửng con rùa vàng.

     Quân Tử từ giã kiếu về, một chặp lâu Đại Trượng Phu sực nhớ lại con rùa, chạy về hỏi vợ, vợ nói không cất. Khó a! không biết tính làm sao, không có lẽ nghi cho anh em, người có bụng dạ tốt.

     Bữa kia Đại Trượng Phu đi lên nhà Quân Tử chơi, thì hỏi mánh rằng: Hôm trước đó, con rùa vàng anh có cầm về chị coi không? Chẳng lành thì chớ! Quân Tử sợ anh em nghi, thì chịu bốc lấy mình có cầm về. Đại Trượng Phu mới nói: Thôi để đó mà chơi, hề gì.

     Bước hơn ra về, hai vợ chồng Quân Tử không biết tính làm sao lo mà trả cho được, người ta thấy mình nghèo, người ta nghi cũng phải, không phép chối[21] đi. Vậy mới bán nhà bán cửa, dắt nhau đi tới với ông Phú Trưởng Giả giàu có muôn hộ, vào lạy ổng, xin ở làm tôi, mà xin năm lượng vàng[22] làm rùa mà trả cho ảnh. Ông Phú Trưởng Giả nghe biết việc, thì lấy vàng, kêu anh thợ làm con rùa vàng rước tới làm, rồi giao cho hai vợ chồng đem về trả. Mà không cho cố thân[23], giúp mà thôi. Đàng kia cũng không chịu, cứ ở làm bộ hạ chơn tay[24].

     Cách đôi ba bữa, con trai Đại Trượng Phu, (tr. 56) chơi no[25] con rùa, cầm về đi thăm nhà luôn trót thể, vào mới hỏi: Cha mẹ thì thôi! Hổm nay là tôi, phải người ta lạ, người ta đã lấy mất con rùa vàng đi còn gì? Hai vợ chồng chưng hửng, lấy làm lạ: Mẻ! Rùa nào con mình lấy đi chơi? Rùa nào anh kia đem trả, không hiểu được.

     Mới định chừng có khi anh Quân Tử sợ mình có nghi lòng ảnh, nên mới làm của khác đem mà thế.

     Đại Trượng Phu lật đật chạy lên trên nhà Quân Tử hỏi thăm, thì người ta nói: Quân Tử đã bỏ xứ đi đâu trên ông Phú Trưởng Giả, cố thân mà lấy vàng thường con rùa vàng nào đó, nghe nói vậy, không biết nữa.

     Nghe vậy lại càng thêm lo. Tìm tới nhà Phú Trưởng ông, hỏi thăm có hai vợ chồng Quân Tử hay không. Người ta nói có. Kêu ra, hai đàng khóc ròng. Đại Trượng Phu vào trả con rùa vàng cho Phú ông, mà lãnh vợ chồng Quân Tử về. Phú ông là người nhơn[26], không chịu lấy rùa: Ảnh có mượn của tôi sao anh trả? Còn hai vợ chồng Quân Tử, tôi có bắt buộc chi, mà anh xin lãnh?

    Tính không xong, trả vàng không lấy, hai vợ chồng Quân Tử mắc nợ không đi, trả rùa cho Quân Tử, Quân Tử không lấy. Túng mới đề điệu nhau ra quan, mà xin quan xử.

    Té ra ba nhà hết thảy đều thật là người ngay lành trung trực, chẳng biết kể của cải ra (tr. 57) giống gì[27], nguyên lo tu đạo đức, lấy nhơn ngãi mà ở với nhau. Ấy mới thật là người quân tử.

 

 

 



[1] Sôi kinh nấu sử: Học hành cần mẫn. "Sĩ thì nấu sử sôi kinh, Làm nên khoa bảng công danh để truyền." (Cadao)

[2] Xầm xì xầm xà: Xì xầm.

[3] Như mặt trời mặt trăng: Tránh nhau, không chịu gặp mặt. Như là kẻ thù, rất ghét nhau.

[4] Rừng sác: Rừng cây mọc theo đất thấp ở ven biển. Còn gọi là rừng nước mặn.

[5] Thì may: Gặp chuyện may mắn. Nay nói thời may thấy chữ thì may hơi bợ ngợ.

[6] Vãng dân: Quan đi thăm dân cho biết sự tình.

[7] Hay ở chỗ người anh hỏi đời sống của em nhưng vẫn không quên chuyện của mình, kẻ cầm quyền, hỏi về tiền đóng thuế.

[8] Chúng tôi kiếm tiền cực lắm, cả vợ chồng đều phải cật lực…

[9] Láu ăn (chứng): Tật ham ăn.

[10] Lua láu: Ăn uống lật đật, và liên tu như sợ người ta ăn hết.

[11] Lấn lướt: Hổn hào, cầm quyền, lớn lối.

[12] Xăng văng: Làm bộ mau mắn nhặm lẹ nhưng chẳng ra tích sự gì.

[13] Thoắng đi mà ăn: Mau lên để dọn ra ăn.

[14] Đặng nề: Đắc thế, được thế, được mợi. 

[15] Làm rộn bộ: HTC, Làm bộ lăng xăng, rộn ràng mà thường không được sự gì.

[16] Ních chiếc đủa bếp lên đầu: Khỏ đủa bếp lên đầu. Ních: Đánh, như ních đòn là đánh đòn

[17] Săn tay: Mau tay, làm cho nhanh.

[18] Chữ đây chỉ người vợ.

[19] Lia băng cung: HTC: Cho mau, mau quá. (Tiếng hối cũng là tiếng trách).

[20] Nhắp: Thả cho dùn rồi giựt. Nhắp nhắp: thả giựt, thả giựt cho cá thấy mồi.

[21] Không được phép chối: Không nên nói là không có trách nhiệm, không phải mình làm…

[22] Năm lượng vàng, số tiền coi bộ bộn à nha!

[23] Cố thân: Làm mướn để trừ nợ.

[24] Bộ hạ chơn tay: Người tín cẩn giúp việc.

[25] Chơi no: Chơi tới chán không muốn chơi nữa.  Chơi đã đủ cho sự ham thích. No: Tiếng xưa có nghĩa là đủ, đầy, nay còn từ no trong nghĩa no bụng. No ngày khẳm tháng: Đủ ngày đủ tháng, nói về thai nhi.

[26] Người nhơn: Người nhơn đức, nhơn hậu, có long thương người.

[27] Chẳng biết của cải ra giống gì: Không coi trọng của cải bạc tiền.



.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.