Hôm nay,  

Tắm Biển Coi Chừng Bị Sứa Độc Chích

29/08/201400:00:00(Xem: 5257)

Nói đến sứa, người ta thường nghĩ đến món gỏi sứa tôm thịt rất khoái khẩu. Nhưng trong thực tế, có rất nhiều loại sứa trong biển cả. Có loại sứa rất to cả thước Tây và cũng có loại rất bé nhỏ hơn đồng xu. Có loại được ngư dân đánh bắt và bán như một hải sản và có loại cũng rất độc hại, chích rất đau, thậm chí có thể chết nguời.

Từ những năm 60, người ta phát hiện được tại vùng biển Úc châu (Tây Úc, Queensland) một loại sứa nhỏ nhứt nhưng đồng thời cũng độc nhứt thế giới, đó là sứa Irukandji. Nếu chẳng may bị loại sứa nầy chích phải, nạn nhân có thể chết nếu không được cứu chữa kịp thời.

* * *

Sứa hộp (Box jelly fish) có hình dạng lập phương cube. Sứa chứa nọc rất độc, gây đau nhức dữ dội nơi chích, và có thể làm chết người.Trong nhóm nầy, có thể kể 3 loài độc nhứt sau đây: Chironex fleckeri, Carukia barnesi hay còn có tên là sứa Irukandji (nhỏ nhứt trong nhóm) và Malo kingi.

Box jellyfish (class Cubozoa) Some species of box jellyfish produce extremely potent venom: Chironex fleckeri, Carukia barnesi and Malo kingi are among the most venomous creatures in the world. Stings from these and a few other species in the class are extremely painful and can be fatal to humans(wikipedia).

blank
Sứa độc.

Video:BOX Jellyfish - The Most Dangerous Sea Creature

1) Chironex Fleckeri
https://www.youtube.com/watch?v=WrMRwddl7iQ

Vào trung tuần tháng 8/ 2014, một em bé trai người Pháp 5 tuổi đã bị một loại sứa hộp (box jelly fish ), rất độc chích chết tại trung tâm nghỉ mát Koh Phangan, vùng Vịnh Thái Lan.

Box jellyfish sting kills French boy in Thailand

The Guardian –Tuesday 26 august 2014
http://www.theguardian.com/world/2014/aug/26/box-jellyfish-sting-kills-french-boy-thailand.

2) Video:Sứa Irukandji (Carukia barnesi)
http://www.jellyfishart.com/kb/jellyfish-biology/most-dangerous-jellyfish

Sứa Irukandji. (Carukia barnesi )(Photo: Wikipedia)

Sứa Irukandji là một loại động vật ruột khoang sống ở biển, thân tán như cái chuông (bell) lối 2,5 cm đường kính và có 4 xúc tu (Tentacle) dài từ vài cm đến 1mét chứa vô số gai (sting) để chích một loại chất độc cực mạnh vào con mồi.

Có 4 loài sứa Irukandji: Carukia barnesi, Malo kingi, Alatina alata và Malo maxima.

There are 4 known species of Irukandji:Carukia barnesi, Malo kingi, Alatina alata and the recently discovered Malo maxima (wikipedia).

Vùng biển Queensland và Tây Úc là nơi có nhiều sứa Irukandji nhứt. Ngày nay, tuy còn rất hiếm nhưng sứa Irukandji cũng đã được thấy xuất hiện tại nhiều nơi khác trên thế giới.


Theo tạp chí National Geographic thì chúng ta cũng có thể thấy sứa nầy tại vùng biển Indonesia, đảo Timore, Madagascar, Anh Quốc, và thậm chí có báo cáo sự hiện diện của sứa Irukandji tại vùng Keys của Florida nữa.

Theo Australian Venom research Unit thì sứa Irukandji thấy có báo cáo tại Miền Nam Thái Lan, Việt Nam, Papua New Guinea, Malaysia, Phi Luât Tân, Indonesia, Nhật Bản và Vịnh Mexico (Texas).

Danh từ Irukandji xuất phát từ bộ lạc thổ dân vùng Palm Cove, phía Bắc Queensland thuộc Úc Châu.

Chính tại vùng này, người ta thường hay thấy xuất hiện hội chứng Irukandji sau khi bị sứa chích. Loại sứa nầy mới chỉ được nói đến nhiều từ những năm 60 mà thôi.

blank
Sứa độc.

Hội chứng Irukandji là gì?

Khi mới bị sứa chích, nạn nhân chỉ có cảm giác hơi đau đau mà thôi. Sau lối 30 phút, độc tố tác động thẳng lên hệ thần kinh trung ương và gây ra một số dấu hiệu được gọi là hội chứng Irukandji: ói mửa, ra mồ hôi, nhức đầu, đau vùng dưới của lưng, vọp bẻ hay chuột rút (muscle cramps),không ở yên được tại một chỗ (restlesness), lo âu, giao động, nhịp tim tăng, áp suất động mạch tăng cao, phù phổi (pulmonary edema). Các triệu chứng trên kéo dài trong vài giờ hay trong nhiều ngày và có thể gây tử vong vì suy tim (toxic heart failure).

Tại bệnh viện, bệnh nhân được khẩn cấp cho tiếp dịch truyền và hỗ trợ trị liệu (supportive therapy).

Không có huyết thanh chống nọc (antivenom serum).

Năm 2004, nhà khoa học Úc Heather Walling cho biết Jame Cook University đã thành công trong việc gầy giống sứa Irukandji trong phòng thí nghiệm. Người ta hy vọng trong tương lai sẽ có thể sản xuất được huyết thanh chống nọc Irukdanji.

Trở ngại chính yếu là số lượng sứa nuôi trong phòng thí nghiệm còn quá ít ỏi, không hơn 1000 con/năm trong khi phải cần từ 2000 con đến 1 000 000 con mới có thể sản xuất được huyết thanh chống nọc độc.

Có tin đồn rằng nọc sứa Irukandji có khả năng trị bệnh bất lực ở đàn ông? Chớ nên vội tin, kẻo bỏ mạng oan uổng nghe các cụ./.

Tham khảo

Video: National geographic Special-Box Jellyfish-Irukandji
http://www.youtube.com/watch?v=Ws5hImeonEA

- World's first Irukandji babies born in captivity

http://www.reef.crc.org.au/media/Worldsfirst.htm

http://www.irukandjijellyfish.com/

- BienDong.net-Khi sứa độc tràn ngập các đại dương
http://www.biendong.net/the-gioi-dai-duong/tai-nguyen-bien/1297-khi-sa-c-tran-ngp-cac-ai-dng.html

Montreal, 2014

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong cuốn tiểu thuyết Chuyện Hai Thành Phố (A Tale of Two Cities) của Charles Dickens, được xuất bản năm 1859 và lấy bối cảnh thời Cách Mạng Pháp, có đoạn viết: “Đó là thời đại tốt đẹp nhất, cũng là thời đại tồi tệ nhất, đó là thời đại của sự khôn ngoan, cũng là thời đại của sự ngu xuẩn.” Đại dịch COVID-19 cũng là một thời đại như thế. Một mặt, khoa học đã cứu sống được nhiều người. Chưa đầy một năm sau khi phát hiện virus, Hoa Kỳ đã tạo ra và thử nghiệm vắc xin, rồi cho sản xuất, phân phối và triển khai tiêm chủng hàng loạt miễn phí cho người dân. Ước tính vắc xin COVID đã cứu được ít nhất 3.2 triệu người chỉ riêng ở Hoa Kỳ. Những thành tựu này tạo ra hy vọng về việc chúng ta có thể nhanh chóng ứng phó với đại dịch trong tương lai.
Hơn một thập niên trước, Shria Kumar, bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa và là chuyên gia nghiên cứu tại Đại học Miami, bắt đầu chú ý đến một dấu hiệu đáng lo ngại. Có một số bệnh nhân ung thư dạ dày đến gặp bà ở độ tuổi rất trẻ, và rất nhiều người là phụ nữ. Khuynh hướng này vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay. Các khoa học gia đang nỗ lực tìm hiểu tại sao điều này lại xảy ra. Vào mùa xuân năm ngoái, họ đã xác nhận rằng hiện tượng này đang diễn ra ở Hoa Kỳ. Sau khi kiểm tra hệ thống các cơ sở dữ liệu chứa các thông tin chi tiết về các trường hợp ung thư ở nhiều tiểu bang trên toàn quốc, các nhà nghiên cứu nhận thấy ung thư dạ dày đang gia tăng nhanh hơn ở phụ nữ trẻ.
Wegovy, Ozempic và Mounjaro là các loại thuốc giảm cân và điều trị tiểu đường đã gây được tiếng vang lớn trong lĩnh vực tin tức y tế. Chúng nhắm vào các con đường điều tiết liên quan đến cả bệnh béo phì và tiểu đường, và được nhiều người coi là bước đột phá trong việc kiểm soát cân nặng, đường và huyết áp. Nhưng liệu những loại thuốc này có giải quyết được nguyên nhân gốc rễ của hội chứng chuyển hóa (metabolic disease) không? Điều gì đã thúc đẩy sự phát triển của chúng từ ban đầu?
Gần đây quý vị vừa bị cảm lạnh, cúm, RSV hoặc COVID, bệnh đã qua nhưng mãi vẫn không thể hết ho? Rất nhiều người bị giống như vậy. Triệu chứng này có thể tồn tại trong nhiều tuần sau khi cơ thể chúng ta đã loại bỏ vi-rút. Michael Shiloh, một bác sĩ chuyên nghiên cứu bệnh truyền nhiễm tại Trung tâm Y tế UT Southwestern cho biết những bệnh nhân bị ho thường kể là họ đã bị bịnh từ 8 tuần trước khi đến gặp ông. Ông nói: “Chúng tôi thực sự không thể phát hiện thấy vi rút gì ở những người này nữa nhưng họ vẫn bị ho.”
Bằng cách bắt chước cơ chế bảo vệ của cơ thể chống lại nhiễm trùng do vi khuẩn, một nhóm nghiên cứu ở Lund, Thụy điển hy vọng có thể ngăn chặn tình trạng viêm phát triển thành nhiễm trùng máu, theo đài truyền hình SVT, Thụy điển. Nhiễm trùng máu là tình trạng nhiễm trùng có thể đe dọa tính mạng. Thông thường nguyên nhân là do viêm phổi, nhiễm trùng đường tiểu hoặc nhiễm trùng vết thương. Nghiên cứu từ Lund cho thấy hiện nhiễm trùng huyết phổ biến hơn so với trước đây.
Ngày nay, có nhiều người lớn hơn bao giờ hết đang phải đối mặt với chứng rối loạn khả năng tập trung- thiếu khả năng chú ý, hay ADHD. Người ta nghi ngờ nguyên nhân chính của vấn đề này là do công nghệ hiện đại đang gây áp lực lên não bộ của họ. Trong khi có gần 10% trẻ em được chẩn đoán mắc chứng ADHD, một phân tích tổng hợp gần đây từ nhiều nghiên cứu cho thấy gần 6.8% người lớn mắc chứng ADHD – tăng từ 4.4% vào năm 2003.
Bộ não của chúng ta thường có khuynh hướng tìm kiếm và phản ứng với những điều mang lại sự hài lòng, gọi là phần thưởng. Khi chúng ta đói, bộ não hiểu rằng thức ăn là một phần thưởng, còn khi ta khát, nước sẽ là phần thưởng. Nhưng lạm dụng các chất gây nghiện như rượu và các loại thuốc có thể ảnh hưởng đến các con đường tìm kiếm phần thưởng tự nhiên trong bộ não, tạo ra những ham muốn khó kiểm soát và làm giảm khả năng kiểm soát hành vi của chúng ta.
Aissam Dam, cậu bé 11 tuổi, lớn lên trong một thế giới im lặng tuyệt đối. Em sinh ra đời đã bị điếc và chưa bao giờ nghe thấy bất kỳ tiếng động nào. Khi sống trong một cộng đồng nghèo ở Maroc, em đã học cách diễn đạt bằng ngôn ngữ ký hiệu do chính mình phát minh ra và không được đi học. Năm ngoái, sau khi chuyển đến Tây Ban Nha, gia đình đưa em đến gặp một chuyên gia về thính giác, người đã đưa ra một gợi ý đáng ngạc nhiên: Aissam có thể đủ điều kiện tham gia thử nghiệm lâm sàng sử dụng liệu pháp gen. Vào ngày 4 tháng 10, Aissam được đưa đến điều trị tại Bệnh viện Nhi đồng Philadelphia, trở thành người đầu tiên được điều trị bằng liệu pháp gen ở Hoa Kỳ cho bệnh điếc bẩm sinh. Mục đích là cung cấp cho em thính giác, nhưng các nhà nghiên cứu không biết liệu phương pháp điều trị này có hiệu quả hay không, và nếu có thì em sẽ nghe được bao nhiêu.
Sau mùa lễ cuối năm là lúc các bậc phụ huynh lo lắng về con đường đại học của con cháu mình. Những con số điểm, những chữ viết tắt như GPA, SAT và ACT sẽ làm phụ huynh nhức đầu và chúng ta sẽ bàn lại về vai trò các điểm này và nhất là tương quan giữa SAT và IQ trong khung cảnh của các thay đổi gần đây ở Mỹ. Năm ngoái, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ quyết định cấm dùng màu da, nguồn gốc sắc tộc để quyết định tuyển chọn một ứng viên, từ chối không cho Đại học Harvard thực hành “tác dụng khẳng định” (affirmative action) để tăng sỉ số da màu không được đại diện đúng mức so với tỷ lệ trong dân số nói chung. Một trong những biện pháp được dùng để giảm bớt sỉ số dân Á Châu là gạt bỏ kết quả kỳ thi SAT hoặc giảm bớt tầm quan trọng của SAT, vì người gốc Á Châu có điểm SAT cao hơn nhiều so với các sắc dân khác.
Hội chứng người cứng đơ (Stiff Person Syndrome – SPS) là một căn bịnh có thể gây co thắt dữ dội và làm suy nhược các cơ, nhưng hầu hết mọi người đều không biết gì về nó mãi cho đến cuối năm ngoái, khi nữ danh ca Celine Dion công bố tình trạng bịnh của mình. Chứng rối loạn thần kinh và tự miễn dịch hiếm gặp này được cho là chỉ ảnh hưởng đến 1 hoặc 2 người trong một triệu người – và hai phần ba trong số những người bị là phụ nữ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.