Quan Hệ Đối Tác Châu Á-Thái Bình Dương Tạo Ra 'Trọng Tâm' Mới Cho Thương Mại Toàn Cầu - UNCTAD

24/12/202111:40:00(Xem: 8967)

Kinh tế


doitac 

Một hiệp định thương mại tự do mới, bao gồm một phần ba nền kinh tế thế giới, sẽ loại bỏ 90% thuế quan giữa 15 quốc gia Đông Á và Thái Bình Dương và dự kiến sẽ thúc đẩy xuất khẩu trong khu vực thêm 42 tỷ USD.

 

Theo một nghiên cứu của Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển (United Nations Conference on Trade and Development, UNCTAD) được công bố vào ngày 15 tháng 12, một hiệp định thương mại tự do châu Á-Thái Bình Dương mới có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 2022 sẽ tạo ra khối thương mại lớn nhất thế giới theo quy mô kinh tế.

 

Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (The Regional Comprehensive Economic Partnership, RCEP) bao gồm 15 quốc gia Đông Á và Thái Bình Dương thuộc các quy mô kinh tế và giai đoạn phát triển khác nhau.

 

Đó là Australia, Brunei Darussalam, Campuchia, Trung Quốc, Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Lào, Malaysia, Myanmar, New Zealand, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam.

 

RCEP sẽ trở thành hiệp định thương mại lớn nhất thế giới được đo bằng GDP của các thành viên, gần một phần ba GDP của thế giới.

 

Để so sánh, các hiệp định thương mại khu vực lớn khác tính theo tỷ trọng GDP toàn cầu là khối thương mại Nam Mỹ Mercosur (2,4%), khu vực thương mại tự do lục địa châu Phi (2,9%), Liên minh châu Âu (17,9%) và Hoa Kỳ-Mexico-Canada. đồng ý (28%).

 

Phân tích của UNCTAD cho thấy tác động của RCEP đối với thương mại quốc tế sẽ rất đáng kể. Báo cáo cho biết: “Quy mô kinh tế của khối mới nổi và sự năng động trong thương mại của khối này sẽ khiến khối này trở thành trung tâm trọng tâm của thương mại toàn cầu.“

Ngay trong COVID-19, việc RCEP có hiệu lực cũng có thể thúc đẩy khả năng phục hồi thương mại. Nghiên cứu gần đây của UNCTAD cho thấy thương mại trong các hiệp định như vậy đã tương đối linh hoạt hơn trước sự suy thoái thương mại toàn cầu do đại dịch gây ra.

 

Xóa bỏ 90% thuế quan trong khối

 

Thỏa thuận bao gồm một số lĩnh vực hợp tác, trong đó nguyên tắc trọng tâm là nhượng bộ thuế quan. Nó sẽ loại bỏ 90% thuế quan trong khối, và những nhượng bộ này là chìa khóa để hiểu những tác động ban đầu của RCEP đối với thương mại, cả trong và ngoài khối.

Theo khuôn khổ RCEP, tự do hóa thương mại sẽ đạt được thông qua việc cắt giảm dần thuế quan. Trong khi nhiều loại thuế quan sẽ được bãi bỏ ngay lập tức, các loại thuế khác sẽ được giảm dần trong thời gian 20 năm.

 

Các mức thuế vẫn còn hiệu lực sẽ chủ yếu giới hạn đối với các sản phẩm trong các lĩnh vực chiến lược, chẳng hạn như nông nghiệp và công nghiệp ô tô, trong đó nhiều thành viên RCEP đã từ chối các cam kết tự do hóa thương mại.

 

Lợi ích cho xuất khẩu trong khu vực

 

Thương mại giữa 15 nền kinh tế của khối đã trị giá khoảng 2,3 nghìn tỷ đô la vào năm 2019 và phân tích của UNCTAD cho thấy các nhượng bộ thuế quan của hiệp định có thể thúc đẩy xuất khẩu trong liên minh mới thành lập lên gần 2%, tương đương khoảng 42 tỷ đô la.


Điều này sẽ là kết quả của việc tạo ra thương mại, vì thuế quan thấp hơn sẽ kích thích thương mại giữa các thành viên gần 17 tỷ đô la và chuyển hướng thương mại, vì mức thuế thấp hơn trong RCEP sẽ tái chuyển hướng thương mại trị giá gần 25 tỷ đô la từ các nước không phải thành viên sang thành viên.

 

Lợi ích không đều giữa các thành viên

 

Báo cáo nhấn mạnh rằng các thành viên trong RCEP dự kiến ​​sẽ được hưởng lợi trong các phạm vi khác nhau của hiệp định.

 

Việc nhượng bộ thuế quan được kỳ vọng là sẽ tạo ra tác động thương mại cao hơn cho các nền kinh tế lớn nhất trong khối, không phải vì sự bất cân xứng trong đàm phán, mà phần lớn là do mức thuế quan vốn đã thấp giữa nhiều thành viên RCEP khác.

 

Phân tích của UNCTAD cho thấy Nhật Bản sẽ được hưởng lợi nhiều nhất từ ​​các nhượng bộ thuế quan trong RCEP, phần lớn là do các tác động chuyển hướng thương mại. Xuất khẩu của nước này dự kiến ​​sẽ tăng khoảng 20 tỷ USD, tương đương với khoảng 5,5% so với xuất khẩu của nước này sang các thành viên RCEP vào năm 2019.

 

Báo cáo cũng cho thấy những tác động tích cực đáng kể đối với xuất khẩu của hầu hết các nền kinh tế khác, bao gồm Úc, Trung Quốc, Hàn Quốc và New Zealand. Mặt khác, các tính toán cho thấy việc nhượng bộ thuế quan RCEP có thể làm giảm xuất khẩu của Campuchia, Indonesia, Philippines và Việt Nam.

 

(Do RCEP, số lượng xuất khẩu của Việt Nam sẽ giảm xuống ước khoảng chung là 1, 5%, nhưng mức xuất lậu sang Trung Quốc không thể xác định, người dịch.)

 

Báo cáo cho biết, điều này chủ yếu xuất phát từ các tác động tiêu cực trong chuyển hướng thương mại, vì một số mặt hàng xuất khẩu của các nền kinh tế này dự kiến ​​sẽ chuyển hướng sang lợi thế của các thành viên RCEP khác do sự khác biệt về mức độ nhượng bộ thuế quan.

Ví dụ, một số mặt hàng nhập khẩu của Trung Quốc từ Việt Nam sẽ được thay thế bằng hàng nhập khẩu từ Nhật Bản do chính sách tự do hóa thuế quan giữa Trung Quốc và Nhật Bản mạnh mẽ hơn.

 

Tham gia khối tốt hơn là ra ngoài

 

Tuy nhiên, báo cáo lưu ý rằng những tác động tiêu cực tổng thể đối với một số thành viên RCEP không ngụ ý rằng họ sẽ tốt hơn nếu ở bên ngoài thỏa thuận RCEP. Tuy nhiên, các hiệu ứng chuyển hướng thương mại sẽ được tích lũy.

 

“Ngay cả khi không tính đến các lợi ích khác của hiệp định RCEP bên cạnh các nhượng bộ thuế quan, các tác động tạo ra thương mại liên quan đến việc tham gia vào RCEP sẽ làm giảm bớt các tác động chuyển hướng thương mại tiêu cực,” báo cáo nêu rõ.


Báo cáo trích dẫn ví dụ của Thái Lan, nơi các tác động tạo ra thương mại hoàn toàn bù đắp cho các tác động chuyển hướng thương mại tiêu cực. Nhìn chung, báo cáo nhận thấy rằng toàn bộ khu vực sẽ được hưởng lợi từ các nhượng bộ thuế quan của RCEP, với hầu hết những lợi ích này là do chuyển hướng thương mại ra khỏi các nước không phải là thành viên.

 

Báo cáo cho biết: “Khi quá trình hội nhập của các thành viên trong RCEP tiến xa hơn, những tác động chuyển hướng này có thể được tăng cường, một yếu tố không nên đánh giá thấp đối với các thành viên không thuộc RCEP”.

 

Đỗ Kim Thêm dịch

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
Hoa Kỳ đang mắc nợ 31 ngàn tỷ MK. Hiện nay, mỗi năm Washington chi nhiều hơn thu khoảng 1 ngàn tỷ MK, buộc Bộ Tài Chánh phải đi vay để bù vào khoản chênh lệch. Điều đó có nghĩa là nợ công quốc gia vẫn đang tăng lên. Nếu không có thay đổi gì lớn, khoản nợ này rồi sẽ lớn hơn so với khi nó đạt đỉnh điểm vào cuối Thế Chiến II. Hầu hết số nợ là do tích lũy dần trong suốt 20 năm qua. Năm 2001, Hoa Kỳ thực ra có dư dả tiền mặt – Bộ Tài Chánh thu thuế được nhiều hơn khoản chi cho các dịch vụ của chính phủ.
Gia tăng giá năng lượng, chuỗi cung ứng xáo trộn, và mức cầu phục hồi sau đại dịch là những nguyên nhân gây ra lạm phát trong 2021-2022. Chính sách tiền tệ thâu hẹp chừng mực của Quỹ Dự Trữ Liên Bang đã giúp lạm phát tiếp tục giảm và nguy cơ trì trệ kinh tế mờ dần. Cố gắng giảm bớt thiếu hụt ngân sách quốc gia cũng đã góp phần đáng kể vào việc kiềm chế lạm phát.
Trần Nợ là con số nợ tối đa mà quốc hội Hoa Kỳ cho phép bên Hành Pháp đi vay. Hiện nay chính phủ Mỹ đang nợ tới $31 ngàn tỷ đô la, tích lũy từ trước đến giờ; đã đụng trần rồi. Trần Nợ mới xuất hiện từ thời Thế Chiến thứ nhất. Trước đó, mỗi lần chính phủ Mỹ muốn vay nợ thì phải xin quốc hội cho phép. Khi nước Mỹ lâm chiến, cần vay nợ liên tiếp, quốc hội bèn đặt ra lệ mới, cho phép vay thả cửa nhưng dưới một giới hạn, gọi là Trần Nợ. Sáng kiến này giải quyết một vấn đề trước mắt nhưng gây rắc rối trong hai chục năm qua giữa hành pháp và lập pháp.
Trong hơn ba năm - chính xác là 1,016 ngày - Trung Quốc đã đóng cửa với cả thế giới. Hầu hết sinh viên nước ngoài rời khỏi đất nước khi bắt đầu đại dịch. Khách du lịch đã ngừng đến tham quan. Các nhà khoa học Trung Quốc đã ngừng tham dự các hội nghị nước ngoài. Các giám đốc điều hành người nước ngoài bị cấm quay trở lại công việc kinh doanh của họ ở Trung Quốc. Vì vậy, khi Trung Quốc mở cửa biên giới vào ngày 8 tháng 1, từ bỏ những tàn tích cuối cùng của chính sách “không covid”, việc đổi mới tiếp xúc thương mại, trí tuệ và văn hóa sẽ có những hậu quả to lớn, mà phần nhiều là lành tính.
Hoa Kỳ sắp chi 490 tỷ đô la trong 10 năm để giảm phát thải khí nhà kính, cải thiện chăm sóc sức khỏe và giảm thâm hụt liên bang. Tất cả số tiền đó đến từ đâu? Học giả về kinh tế Nirupama Rao của Trường Michigan giải thích cách mà đạo luật mới sẽ giúp tăng đủ nguồn thu để trả cho các khoản miễn thuế trong lĩnh vực năng lượng sạch, các khoản trợ cấp theo Đạo luật Affordable Care Act và các ưu đãi cho các nhà sản xuất sử dụng công nghệ sạch hơn, cũng như các sáng kiến khác nữa. Và rằng, với tên gọi của nó, liệu Đạo Luật Giảm Lạm Phát (Inflation Reduction Act – IRC) có thực sự làm giảm lạm phát hay không?
Trong tháng 6, nền kinh tế Hoa Kỳ đã tạo thêm nhiều việc làm hơn dự kiến, báo hiệu thị trường lao động vẫn còn rất mạnh mẽ dù cho Quỹ Dự Trữ Liên Bang (FED) đã cố gắng làm cho nó suy yếu đi để kiềm chế lạm phát. Báo cáo việc làm ngày 8 tháng 7 năm 2022 cũng cho thấy tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức thấp nhất trong 70 năm là 3.6%. Liệu điều này có nghĩa là Hoa Kỳ sẽ tránh được một cuộc suy thoái hay không? Christopher Decker, kinh tế gia tại Trường Nebraska Omaha, giải thích các con số và ý nghĩa của chúng đối với FED và nền kinh tế. Bài viết được đăng trên trang TheConversation.
Bài phân tách sau đây sẽ bàn về những thiệt hại kinh tế Nga đang phải lãnh đủ. Nga với 142 triệu dân (2021) và tổng sản lượng nội địa (GDP) của 2020 là $3,876 tỉ (theo thời giá 2017), từ một nền kinh tế chỉ huy chuyển qua kinh tế tư bản quốc doanh với một khu vực tư nhân giới hạn sau khi Liên Xô xụp đổ. Kinh tế Nga đã thực hiện được mức phát triển tốt đẹp vào những năm 1998-2008. Tiếp theo là giai đoạn kinh tế trì trệ. Cuộc xâm chiếm Crimea vào 2014 đã đẩy Nga vào cuộc suy thoái kinh tế. Cuộc xâm lăng Ukraine vào 2022 sẽ làm kinh tế lún sâu vào một cuộc khủng hoảng chưa từng thấy vì những biện pháp trừng phạt kinh tế của khối các nước dân chủ.
Nhân dịp đầu năm 2022 và cũng là thời điểm đánh dấu một năm làm tổng thống của Joe Biden, chúng ta thử kiểm điểm nền kinh tế của Hoa Kỳ.
Người Mỹ, đặc biệt là những người có thu nhập thấp, đã phải chịu đựng sức ép của giá cả tăng vọt trong những tháng gần đây. Giá mà người tiêu dùng trả cho mọi thứ, từ cá đến xăng dầu đã tăng vọt, với tốc độ thay đổi cao nhất trong nhiều thập kỷ. Lạm phát là sự gia tăng tổng quát và liên tục về giá của nhiều loại hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế. Lạm phát làm xói mòn sức mua sắm của người tiêu dùng và giá trị tiền mặt của họ, do đó làm giảm thu nhập thực tế của họ. Một nền kinh tế hiện đại có hàng triệu thứ hàng hóa và dịch vụ mà giá cả liên tục giao động theo các luồng gió cung và cầu. Làm thế nào để tất cả những luồng thay đổi này có thể tụ lại một tỷ số lạm phát duy nhất? Như nhiều vấn đề trong lãnh vực đo lường kinh tế, câu trả lời khá đơn giản: Giá của nhiều loại hàng hóa và dịch vụ được kết hợp thành một mức giá hoặc chỉ số duy nhất, và tỷ lệ lạm phát chỉ đơn giản là thước đo sự thay đổi của chỉ số này trong một số thời kỳ. Các nhà kinh tế học có nhiều công cụ để đo l
Hôm thứ Ba, các cổ phần tương đối tiến lên, nhưng đủ để đưa chỉ số kỹ nghệ Dow vượt mức cao kỷ lục mới,
Thầy THÍCH PHÁP HÒA sẽ có buổi thuyết pháp tại chùa Bảo Quang vào thứ bẩy ngày 22 tháng 4 năm 2023, lúc 2 giờ chiều
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.