Hôm nay,  

Vua Trần Nhân Tông Và Cuộc Chiến Chống Nguyên Mông

24/09/202009:41:00(Xem: 4744)


Đầy sách giường song chếch bóng đèn

Sân thu sương bủa thoáng hơi đêm 

Tiếng chày thức dậy đâu không biết 

Hoa mộc trên cành trăng mới lên

Đêm khuya, ánh trăng luồn qua song cửa nơi chiếc giường tre đầy sách, có tiếng rơi nhẹ của sương thu trên lá cây trước sân nhà, có tiếng chày nện vải từ một ngôi làng dệt vải nào xa xăm, … bài thơ đã vẽ nên một khung cảnh của một đêm trăng thanh bình.

Người đọc có lẽ đoán rằng tác giả là một văn nhân, một nhà thơ hay một thiền sư. Nhưng tác giả, vua Trần Nhân Tông, cũng chính là một nhà quân sự lỗi lạc, một vị minh quân đã dẫn dắt Đại Việt qua hai cuộc chiến tranh chống lại đế quốc Nguyên Mông năm 1285 và năm 1288. 

Là vị vua thứ ba của nhà Trần, thái tử Trần Khâm con trưởng của vua Thánh Tông và thái hậu Nguyên Thánh sinh ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ, niên hiệu Nguyên Phong thứ 8, năm 1258. Khi còn trẻ, nhà vua học thông tam giáo và hiểu sâu Phật điển, ngay cả thiên văn, lịch số, binh pháp, y thuật, âm luật, không thứ gì là không mau chóng nắm được sâu sắc. Nhưng cuộc đời vua Trần Nhân Tông không giống cuộc đời những ông vua sinh ra, lớn lên trong một đất nước thái bình. Năm vua ra đời cũng chính là thời điểm vua Trần Thái Tông vừa đánh tan đạo quân xâm lược của đế chế Nguyên Mông lần đầu tiên trên đất nước ta.

Hai mươi năm tiếp theo là một cuộc đấu tranh gian khổ về ngoại giao của Đại Việt để vừa bảo vệ chủ quyền đất nước, vừa mang lại nền hòa bình cho người dân có cơ hội sinh sống, vừa chuẩn bị tiềm lực để chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu.

Chuyện kể rằng vào một ngày xuân trước cuộc chiến tranh năm 1285, vua Trần Nhân Tông đến thăm lăng mộ của ông nội. Cảm cái hào khí của cuộc chiến thắng quân Mông Cổ những năm Nguyên Phong xưa, ngài đề mấy câu thơ bằng chữ Hán tạm dịch như sau:

Hùm gấu nghiêm nghìn cửa 

Áo mão bảy phẩm đầy 

Lính bạc đầu còn đó 

Nguyên Phong mãi kể say

Nhà vua là người khoan từ, hoà nhã, không thích chiến tranh nhưng nhà vua cũng là một nhà quân sự tài ba. Sử chép rằng sau chiến thắng quân Nguyên, nhà vua quyết định thân chinh đi đánh dẹp Ai Lao. Triều thần ngăn lại, tâu rằng:

  • Giặc Nguyên vừa rút lui, vết thương chưa khỏi sao có thể dấy binh?

Vua đáp:

  • Chỉ có thể vào lúc này mới ra quân được, vì sau khi giặc rút lui thì ba vùng (Ai Lao, Chiêm Thành và Chân Lạp) tất cho rằng quân ngựa và của cải ta đã bị tan mất. Sẽ có sự khinh nhờn đối với ta, cho nên phải đem đại quân đi để thị uy.

Quần thần đều cho là phải nói:

  • Đó là thánh nhân lo xa, chẳng phải bọn thần nghĩ kịp được.

Trong cuộc xâm lăng lần thứ hai của quân Nguyên, trước thế giặc quá mạnh, mặt trận Nội Bàn do chính Hưng Đạo Vương chỉ huy tan vỡ. Nhà vua đã nhịn đói cả ngày giong thuyền đến gặp Hưng Đạo Vương để bàn chuyện.


Không biết Hưng Đạo Vương và nhà vua đã bàn luận gì trong cuộc hội kiến chớp nhoáng ở Hải Đông. Nhưng sau cuộc gặp đó Đại Việt Sử Ký toàn thư đã ghi: “Hưng Đạo Vương vâng lệnh điều quân dân các lộ Hải Đông, Vân Trà, Bà Điểm, chọn người mạnh khỏe làm quân tiên phong vượt biển vào nam. Thế quân đã hơi nổi. Các quân nghe thế, không quân nào là không đến tụ họp.

Trước khi rời đi, nhà vua làm thơ đề ở cuối thuyền rằng:

Cối Kê việc cũ ông nên nhớ

Hoan Ái vẫn còn mười vạn quân

Hai câu thơ cho thấy vua Trần Nhân Tông viết để nhắn gửi Trần Hưng Đạo và các tướng lĩnh thời bấy giờ. Về “việc cũ Cối Kê” tức việc Câu Tiễn nước Việt xưa bị Phù Sai nước Ngô đánh bại, nhưng cuối cùng qua gian khổ, nhịn nhục, đã vùng lên tiêu diệt Phù Sai để chiến thắng. Nhà vua còn động viên các tướng lĩnh bằng cách báo cho họ biết rằng lực lượng ta vẫn còn 10 vạn quân tại Hoan Ái sẵn sàng bổ sung vào chiến đấu. Xem qua việc này chứng tỏ nhà vua đi sát và nắm vững tình hình chiến trận, cũng như tinh thần của quân sĩ.

Trong cuộc đời mình, vua Trần Nhân Tông đã từng sống qua hai cuộc chiến tranh tàn khốc, nên hơn ai hết đã hiểu thế nào là những nỗi khổ do chiến tranh đem lại cho phía ta cũng như phía địch. Việc nhà vua cởi áo ngự bào, phủ lên thủ cấp của tên tướng giặc Toa Đô mới bị quân ta chém đầu trong trận Tây Kết, do chính nhà vua trực tiếp chỉ huy, là một hành động nhân bản cao thượng.

Ngay khi khói lửa của cuộc chiến tranh năm 1288 đang còn vướng vất trên các chiến trường Thăng Long, Bạch Đằng; lúc tiếp phái bộ Lưu Đình Trực và Lý Tư Diễn do Hốt Tất Liệt gửi qua để đòi lại các tướng tá giặc như Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Sầm Đoạn, … do ta bắt được. Nhà vua đã bộc lộ nỗi tha thiết đối với hoà bình trong bài thơ tiễn đưa phái bộ này:

Khí hòa góc đất đều lan tới

Bụi chiến sông trời rửa sạch trơn.

Đây là nội dung đặc biệt của thơ văn vua Trần Nhân Tông, bộc lộ một sự tha thiết đối với hòa bình. Thật cũng lạ, một con người đã từng chỉ đạo, trực tiếp tham gia chiến tranh và đã có những chiến thắng oanh liệt. Vậy mà qua thơ văn vẫn luôn luôn biểu hiện một ước ao nóng bỏng đối với hòa bình.

Để lãnh đạo thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, hãy xem cách vua Trần Nhân Tông điều hành đất nước cùng Thượng hoàng Thánh Tông trong suốt thời gian này:

Trong khi tiến hành khẩn trương các hoạt động quân sự, thì công tác vận động toàn dân tham gia kháng chiến đã được thực hiện song song. Nhà vua cho mở hội nghị ở Bình Than triệu tập các vương hầu khanh tướng để bàn kế sách, thống nhất một lòng trong triều đình quyết tâm đánh đuổi Nguyên Mông. Đầu năm 1285, nhà vua lại cùng Thượng hoàng triệu tập các bô lão trong cả nước về đãi tiệc tại thềm điện Diên Hồng, hỏi kế đánh giặc. Để trả lời câu hỏi của vua về việc nên hòa hay chiến, các vị bô lão đã muôn người như một đồng thanh đáp lại “quyết chiến”.

Hội nghị Diên Hồng là một cuộc vận động tư tưởng lớn, nhằm phổ biến rộng rãi chủ trương nhất định kháng chiến của vua Trần Nhân Tông và triều đình cùng quân đội tới toàn dân.

Ý gởi từ muôn dân, lệnh trao từ chín bệ

Thì nắm đầu giặc như chơi, cướp giáo giặc cũng dễ

…"Nuốt sao Ngưu" chẳng phải việc hoang đường

(Vũ Hoàng Chương)

Khoan thứ cho dân, lấy dân làm gốc là chủ trương của vua Trần Nhân Tông và Thượng hoàng Thánh Tông. Trong giai đoạn chiến tranh với quân Nguyên Mông, dân ta đã được răn dạy: “Phàm các quận huyện trong nước, nếu như có giặc ngoài đến, thì phải tử chiến. Hoặc nếu sức địch không lại thì cho phép trốn vào trong núi đầm. Không được đầu hàng”. Tuy vậy, do thế giặc quá mạnh vẫn có người vì quá khiếp sợ đã ra đầu hàng giặc, trong đó có cả hoàng thân của vua là bọn Trần Kiện.

Sau ngày chiến thắng nhà vua đã thưởng công cho binh sĩ và trị tội những kẻ đầu hàng giặc.Tuy nhiên, giống như cách xử sự của ông nội mình là Trần Thái Tông đối với Hoàng Cự Đà trong cuộc chiến tranh năm 1258, vua Trần Nhân Tông vẫn cảm thấy trách nhiệm của mình đối với sự đầu hàng của một số tôn thất và dân chúng khi quân Nguyên xâm lược nước ta vào năm 1285. Chắc chắn vì cảm thức này, mà vua đã cho tiến hành 2 cuộc đại xá chỉ cách nhau trong vòng mấy tháng.

Khi quân Nguyên thua chạy, quân ta đã bắt được một hòm các tờ biểu xin đầu hàng giặc. Thượng hoàng Thánh Tông mở lòng nhân từ ra lệnh đốt tất cả những tờ biểu này để yên lòng những kẻ đã lỡ lầm đầu hàng giặc. Qua hai cuộc đại xá của nhà vua, chúng ta thấy đây là những bước đi nhằm ổn định lòng dân, đồng thời cũng xóa đi những mặc cảm tội lỗi của những kẻ phản bội đầu hàng. Ranh giới phân cách trong dân tộc và sự chia rẽ tâm lý giữa những người cùng chung huyết thống đã được xoá nhòa.

Bạn đọc thân mến, khi một nửa thế giới đang rung chuyển vì vó ngựa của quân Mông Cổ, khi đất nước Trung Quốc khổng lồ đã lọt hẳn vào tay đội quân hung hãn này thì đất nước ta, cái mảnh đất nhỏ bé nằm tiếp giáp phía nam Trung Quốc làm thế nào để có thể trường tồn, nếu không có sự dẫn dắt anh minh và sự quyết tâm hy sinh sắt đá từ Vua chí dân. Xin được gởi đến bạn đọc chi tiết trận chiến chống quân Nguyên Mông vào kỳ tới và xin mời bạn theo dõi video tại đây:


https://youtu.be/YWjuGHj33qk


“Nguyệt Quỳnh tổng hợp”

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bằng cách làm suy yếu các đồng minh của Mỹ, chính quyền Trump đã làm suy yếu việc răn đe mở rộng của Mỹ, khiến nhiều quốc gia cân nhắc liệu họ có nên có vũ khí hạt nhân cho riêng mình không. Nhưng ý tưởng về việc phổ biến vũ khí hạt nhân nhiều hơn có thể ổn định dựa trên nền tảng của các giả định sai lầm.
Tạp chí TIMES kết thúc cuộc phỏng vấn với Tổng thống Trump nhân dịp đánh dấu 100 ngày ông ta quay lại Tòa Bạch Ốc (20/1/2025) bằng câu hỏi, “John Adams, một công thần lập quốc, vị tổng thống thứ hai của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ (1797 – 1801) đã nói chúng ta là một quốc gia pháp trị, chứ không phải bất kỳ người nào, Tổng thống đồng ý không?” Donald Trump trả lời: “Chúng ta là một chính phủ do luật pháp cai trị, không phải do con người sao? Ồ, tôi nghĩ vậy, nhưng anh biết đấy, phải óc ai đó quản lý luật pháp. Bởi nên, con người, nam hoặc nữ, chắc chắn đóng một vai trò trong đó. Tôi không đồng ý với điều đó 100%. Chúng ta là một chính phủ mà con người tham gia vào quá trình thực thi luật pháp, và lý tưởng nhất là anh sẽ có những người công chính như tôi.”
Chuyện “Ngưng bắn…” kể cho độc giả Bloomington ngày ấy, đã là chuyện quá khứ. 30 tháng Tư năm sau, cuộc chiến trên đất Việt tàn. Chủ nghĩa Cộng sản, nguyên nhân của nạn binh đao, dìm quê hương tôi trong biển máu hàng thập kỷ, cuối cùng đã hưởng hết 70 năm tuổi thọ. Tưởng chuyện đau thương trong một ngày ngưng bắn của gia đình, vì sự an toàn, phúc lợi của loài người, phải trở thành cổ tích. Vậy mà hôm nay, trong thời đại này, chuyện buồn chiến tranh của tôi đang tái diễn...
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.