Hôm nay,  

Nghĩ Từ Quyển Sách Dịch Thơ Cao Bá Quát

04/02/201800:00:00(Xem: 4091)
Người Việt dính dáng với văn chương thơ phú của Việt Nam đa số thích thơ Đường. Ai có tâm hồn nghệ sĩ hơn và  đam mê hơn thường nghêu ngao ngâm nga thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Xương Linh, Mạnh Hạo Nhiên, Liễu Tôn Nguyên, Bạch Cư Dị… để tự mình tìm tòi cái hay đẹp của chính nguyên tác. Vẫn chưa đủ, họ nghiền ngẫm bài dịch các bài thơ nầy để mong hiểu thêm nữa mà khi đọc nguyên tác chưa hiểu hết ý. Có người lại dùng thời giờ và sở học của mình dịch từng tập dầy thơ Đường ra quốc ngữ để cho riêng mình thưởng thức. Họ rất sung sướng khi thấy một chữ mình dịch thiệt là đắc thể, đúng chỗ, lột được ý của nguyên tác. Thậm chí có người không biết chữ Hán hay lỏm bỏm vài ba chữ cũng nhảy vô dịch, căn cứ trên những bản dịch có sẵn từ trước, thay đổi một vài chữ hay một vài nhóm từ.  Cách dịch dễ nhứt là căn cứ trên bản dịch của ai đó giúp mình hiểu ý bài thơ làm căn cứ rồi diễn dịch lại bằng câu thơ mà vần là vần của nguyên tác. Cách nầy phổ thông nhứt khiến cho có cảnh tượng mà tôi không biết là đáng vui hay buồn: anh dịch, tôi dịch, nó dịch, chúng ta cùng dịch thơ chữ Hán.

Chuyện ưa thích và đi đến tình trạng sính thơ chữ Hán đến tuyệt đỉnh như vậy không có gì đáng chê trách vì thơ Đường nói riêng và nói chung các thứ thơ của những đời trước hay sau đó của Trung Quốc vừa là tài sản văn hóa của nước Trung Hoa vừa là thứ gì đó rất gần gũi với người Việt. Bao thế kỷ rồi ông bà ta sống với loại thơ nầy, thưởng thức nó và thậm chí học hỏi từ nó. Dịch thơ chữ Hán của Trung Hoa cũng là dịp thưởng thức cái hay của thơ một cách cẩn thận, có dịp khám phá hết các chi tiết sâu thẩm ẩn tàng trong một bài thơ mà khi chỉ đọc qua không thể nào nắm bắt được hết. Dầu thơ chữ Hán là thơ của một nước trong quá khứ từng làm khổ dân ta và hiện tại nhà nước của thứ thơ đó còn có mộng nuốt chửng cả nước ta. Thế nhưng Thơ chữ Hán như một hoàng tử tốt áo. Thiên hạ xúm lại sờ mó, ca tụng tâng bốc đã nhiều, không chỉ người trong các nước Đông Á từng chịu ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc thôi mà cả người của nhiều nước Tây Phương như Anh Mỹ Pháp… nữa cũng thích.

Thơ chữ Hán, dầu hay, đó cũng là thứ gì đó của người nước khác, thuộc một nền văn hóa không phải  là của người Việt trong khi nước ta cũng có thứ tương đương là thơ chữ Hán của người Việt Nam. Gia tài của Mẹ Việt Nam nầy lâu nay chưa được chú ý đúng mức. Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố, Trần Trọng San, Bùi Khánh Đản, Đinh Văn Chấp vừa chỉ giới thiệu và dịch thơ chữ Hán của Trung Quốc, sang quốc ngữ bằng nguyên thể  thường gọi là Đường luật. Các ông nầy đã bỏ quên loại Đường thi của người Việt Nam sáng tác  trong 4, 5 trăm năm người Việt chịu ảnh hưởng của Trung Hoa. Công việc làm lúc đó, 7, 9 chục năm trước có thể là tốt, là chấp nhận được. Nó giúp chúng ta hiểu hơn văn học và văn hóa của người bạn láng giềng khổng lồ Trung Quốc ở phía Bắc. Mặt khác lúc đó, nền văn hóa ảnh hưởng đến người Việt Nam mạnh nhứt phải nói là văn hóa Trung Hoa, sự giới thiệu thơ Trung Hoa cho độc giả Việt là chuyện dĩ nhiên.

Nhưng thời thế đã đổi thay rồi.

Ta, nếu có sở học, nếu có thời giờ, nên trở về với cái thật sự là thành phần gia tài của dân tộc mà dịch thơ chữ Hán của người Việt Nam.

Thơ chữ Hán của Việt Nam có nghệ thuật và có dính dáng đến sinh hoạt văn hóa hay tâm tình thiệt sự của người Việt không nhiều gì, bởi vì, phải thú thiệt một điều đau lòng là, một phần lớn loại thơ nầy được sáng tác để thù tiếp bạn bè hay sáng tác lúc trà dư tửu hậu, vui chơi với kỷ thuật hơn là biểu lộ tâm tình ẩn náo trong lòng người làm thơ. Còn lại thiệt sự có thể kể ra chừng năm bảy chục tập thôi. Nếu coi số lượng đó là gia tài văn chương chữ Hán của người Việt Nam thì thiệt là quá ít, nghĩa là nghèo bàn, khiêm tốn. Thế mà chúng ta không mấy ai biết đến chúng một cách tường tận trong khi thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ và các thi nhân sau đó có cả trăm nhà với cả chục ngàn bài mà quá nhiều người biết, quá nhiều tập thơ dịch công phu và tài hoa… Chuyện của nước người sao mà nhanh nhẩu, còn chuyện của nước ta sao mà thờ ơ thế. Đã đến lúc nên suy nghĩ lại, có đáng chăng bỏ phí thời giờ và tâm huyết vô lo cho đứa con của hàng xóm có cha mẹ đầy đủ trong khi vợ chồng mình thiếu trước hụt sau lại chẳng lo cho con mình?


Thơ chữ Hán của các thiền sư đời Lý (Khánh Hỷ, Bảo Giác, Huyền Quang, Pháp Loa, ..), các vị minh quân đời Trần (Trần Thái Tôn, Trần Thánh Tôn, TRần Nhân Tôn, Trần Minh tôn…) và gần đây là các thi sĩ thứ thiệt như Nguyễn Du, Nguyễn Trải, Nguyễn Xuân Ôn, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định (Gia Định Tam Gia), Kiều Oánh Mậu, Kỳ Đồng, Ngô Thế Vinh, Ngô Đình Thái,  Dương Khuê, Dương Bàng…vẫn chưa được dịch hết, đó là chưa kể có tác giả chưa từng được dịch bài nào, khiến cho cái tên ta nghe tường chừng họ là người Trung Quốc..…

Cái khổ ta là nước nhỏ, văn hóa thì chịu ảnh hưởng của nước lớn, chữ viết cũng lấy của họ làm của mình trong thời gian dài. Bây giờ thì con cháu dầu xa lạ với thứ chữ đó nhưng gia sản văn hóa của ông cha không thể xổ toẹt, coi như không có. Ai có chút Hán học, phải bỏ công dịch tác phẩm chữ Hán của người Việt Nam ra chữ quốc ngữ.

Đó là chuyện phải làm.

Đã đến lúc ta nên quay trở về góp công sức để giới thiệu nền văn hóa của dân tộc, ít nhứt là với người Việt Nam ta, nếu sau nầy có điều kiện, các học giả Việt của thế hệ di dân 2, 3, 4…n,… viết và giới thiệu bằng ngôn ngữ nơi họ sinh sống thì còn gì đáng vui mừng bằng. Và quyển sách dịch thơ của Cao Bá Quát  của Giáo Sư Thái Trọng Lai cung cấp cho chúng ta những điều cần thiết đó. Ông dịch một tác giả Việt Nam bậc thầy và dịch bài nào cũng hay cũng lột hết ý của tác giả….

Thơ văn Cao Bá Quát đã được dịch nhiều lần rồi, không kể thời tiền chiến ở Bắc mỗi người dịch một ít, thời Việt Nam Cộng Hoà, Sa Minh Tạ Thúc Khải dịch gần như toàn bộ rồi, và gần đây Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học ở Sàigòn cũng dịch lại nữa.

Tại sao lại còn có công trình của Giáo Sư Thái Trọng Lai? Theo tôi có  thể là ông thấy tác giả nầy quả thiệt như đời xưng tụng là thánh thơ, nghĩa là ý tứ cao thâm, từ ngữ vi diệu mà mỗi người chỉ cảm nhận được một ít, thiệt chẳng bỏ công  dịch lại lần nữa, chú lại lần nữa.

Đọc thơ văn chữ Hán hiểu hết ý tại ngôn ngoại là điều thích thú nhưng rất hiếm. Chẳng hạn như bài Quỳnh Hải Nguyên Tiêu của Nguyễn Du trongThanh Hiên Thi Tập, tác giả tả trăng coi đó là người con gái đẹp chứ không phải như người con gái đẹp, bây giờ đêm rằm tháng Giêng nàng đang soi sáng nhà ai, có soi sáng nơi vợ mình ở xa xôi chăng (nhớ vợ), có thấy cảnh huynh đệ mình ly tán chăng (thương gia đình mình), có soi được tấm lòng buồn bã của mình bây giờ đây sau những biến đổi chăng (tự thương thân). Nguyễn Du dùng chữ nhữ 汝 (mày, nhà ngươi, em) để chỉ mặt trăng mà có người dịch lại cho rằng chữ nhữ 汝 chỉ vào chính Nguyễn Du!

Vấn đề theo tôi không nằm trong sự đúng sai mà là do người dịch đã chọn chữ không thuyết phục được người xem. Đọc suốt quyển sách Tuyển Dịch Thơ Chữ Hán Cao Bá Quát của Thái Trọng Lai tôi không có nhiều sự-bực-mình-vì-không-đồng-ý tương tợ như sự kiện trên. Đó là ưu điểm lớn, kế bên ưu điểm thơ ông dịch có nhiều thi vị. Hai ưu điểm trên nói thì coi như nhỏ nhưng thực sự muốn đạt được điều nầy người dịch phải có nội lực chữ Hán thâm hậu và có khả năng vận dụng vần điệu thiệt tân kỳ, dễ như lấy chữ trong túi, giúp cho người đọc dễ lý hội, từ đó hiểu rõ hơn con người phản kháng Cao Bá Quát mà thơ Nôm của ông chỉ là những vệt nắng soi qua khóm lá của ánh sáng mặt trời…

Và đây là điều hân hạnh cho người giới thiệu…

 

Nguyễn Văn Sâm  (Victorville, CA, Sept.15, 2012)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
Đến giữa tháng 3 năm nay, hầu hết chúng ta đều thấy rõ, Donald Trump sẽ là ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng Hòa và Joe Biden là ứng cử viên tổng thống của Democrat. Ngoại trừ vấn đề đột ngột về sức khỏe hoặc tử vong, có lẽ sẽ không có thay đổi ngôi vị của hai ứng cử viên này. Hai lão ông suýt soát tuổi đời, cả hai bộ não đang đà thối hóa, cả hai khả năng quyết định đều đáng nghi ngờ. Hoa Kỳ nổi tiếng là đất nước của những người trẻ, đang phải chọn lựa một trong hai lão ông làm người lãnh đạo, chẳng phải là điều thiếu phù hợp hay sao? Trong lẽ bình thường để bù đắp sức nặng của tuổi tác, con đường đua tranh vào Tòa Bạch Ốc, cần phải có hai vị ứng cử viên phó tổng thống trẻ tuổi, được đa số ủng hộ, vì cơ hội khá lớn phải thay thế tổng thống trong nhiệm kỳ có thể xảy ra. Hơn nữa, sẽ là ứng cử viên tổng thống sau khi lão ông hết thời hạn bốn năm. Vị trí và vai trò của nhân vật phó này sẽ vô cùng quan trọng trong lần tranh cử 2024.
Không phải “học” mà là bắt, là tóm đầu, là tống cổ vào nhà giam: khi cân bằng quyền lực ở Hà Nội xáo trộn với tiền chấn rung chuyển tận Amsterdam thì cái khẩu hiệu quen thuộc của Vladimir Lenin ngày nào cũng phải được cập nhật. Không còn “Học, học nữa, học mãi” mà, táo tợn hơn, hệ thống quyền lực đang giỡn mặt Lenin: “Bắt, bắt nữa, bắt mãi”.
Câu chuyện kể từ xa xưa, rất xa xưa, là từ thời đức Phật còn tại thế: Có một người Bà La Môn rất giầu có và rất quyền thế, ông thích đi săn bắn thú vật trong rừng hay chim muông trên trời. Một hôm đó, ông bắn được một con thiên nga to đẹp đang bay vi vút trong bầu trời cao xanh bát ngát thăm thẳm trên kia. Con thiên nga vô cùng đẹp bị trúng đạn, rơi xuống đất, đau đớn giẫy và chết. Ông liền chạy tới lượm thành quả của ông và xách xác con thiên nga lộng lẫy về cho gia nhân làm thịt, làm một bữa nhậu, có lẽ.
Dù đã từ trần từ lâu, Võ Văn Kiệt vẫn được người đời nhắc đến do một câu nói khá cận nhân tình: “Nhiều sự kiện khi nhắc lại, có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn”. Tôi vốn tính hiếu chiến (và hiếu thắng) nên lại tâm đắc với ông T.T này bởi một câu nói khác: “Chúng tôi tự hào đã đánh thắng ba đế quốc to”. Dù chỉ ngắn gọn thế thôi nhưng cũng đủ cho người nghe hiểu rằng Việt Nam là một cường quốc, chứ “không phải dạng vừa” đâu đấy!
Lý do ông Thưởng, ngôi sao sáng mới 54 tuổi bị thanh trừng không được công khai. Tuy nhiên, theo báo cáo của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và các cơ quan chức năng, thì ông Võ Văn Thưởng “đã vi phạm Quy định về những điều đảng viên không được làm...
Cứ theo như lời của giáo sư Nguyễn Văn Lục thì T.T. Thích Trí Quang là tác giả của câu nói (“Cộng Sản nó giết mình hôm nay, mai nó mang vòng hoa đến phúng điếu!”) thượng dẫn. Tôi nghe mà bán tin bán nghi vì nếu sự thực đúng y như vậy thì hoa hòe ở Việt Nam phải trồng bao nhiêu mới đủ, hả Trời?
Đảng CSVN tự khoe là “ niềm tin hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc“của nhân dân, nhưng sau 94 năm có mặt trên đất nước, thực tế đã chứng minh đảng đã cướp mất tự do của dân tộc, và là lực cản của tiến bộ...
Khi Kim Dung gặp Ian Fleming cả hai đều hớn hở, tay bắt mặt mừng và hể hả mà rằng: “Chúng ta đã chia nhau độc giả của toàn thể thế giới”. Câu nói nghe tuy có hơi cường điệu (và hợm hĩnh) nhưng sự hỉ hả của họ không phải là không có lý do. Số lượng sách in và số tiền tác quyền hậu hĩ của hai ông, chắc chắn, vượt rất xa rất nhiều những cây viết lừng lẫy cùng thời. Ian Fleming đã qua đời vào năm 1964 nhưng James Bond vẫn sống mãi trong… sự nghiệp của giới làm phim và trong… lòng quần chúng. Tương tự, nhân vật trong chuyện kiếm hiệp của Kim Dung sẽ tiếp tục là những “chiếc bóng đậm màu” trong tâm tư của vô số con người, nhất là người Việt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.