Hôm nay,  

Nghĩ Từ Quyển Sách Dịch Thơ Cao Bá Quát

04/02/201800:00:00(Xem: 4085)
Người Việt dính dáng với văn chương thơ phú của Việt Nam đa số thích thơ Đường. Ai có tâm hồn nghệ sĩ hơn và  đam mê hơn thường nghêu ngao ngâm nga thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Xương Linh, Mạnh Hạo Nhiên, Liễu Tôn Nguyên, Bạch Cư Dị… để tự mình tìm tòi cái hay đẹp của chính nguyên tác. Vẫn chưa đủ, họ nghiền ngẫm bài dịch các bài thơ nầy để mong hiểu thêm nữa mà khi đọc nguyên tác chưa hiểu hết ý. Có người lại dùng thời giờ và sở học của mình dịch từng tập dầy thơ Đường ra quốc ngữ để cho riêng mình thưởng thức. Họ rất sung sướng khi thấy một chữ mình dịch thiệt là đắc thể, đúng chỗ, lột được ý của nguyên tác. Thậm chí có người không biết chữ Hán hay lỏm bỏm vài ba chữ cũng nhảy vô dịch, căn cứ trên những bản dịch có sẵn từ trước, thay đổi một vài chữ hay một vài nhóm từ.  Cách dịch dễ nhứt là căn cứ trên bản dịch của ai đó giúp mình hiểu ý bài thơ làm căn cứ rồi diễn dịch lại bằng câu thơ mà vần là vần của nguyên tác. Cách nầy phổ thông nhứt khiến cho có cảnh tượng mà tôi không biết là đáng vui hay buồn: anh dịch, tôi dịch, nó dịch, chúng ta cùng dịch thơ chữ Hán.

Chuyện ưa thích và đi đến tình trạng sính thơ chữ Hán đến tuyệt đỉnh như vậy không có gì đáng chê trách vì thơ Đường nói riêng và nói chung các thứ thơ của những đời trước hay sau đó của Trung Quốc vừa là tài sản văn hóa của nước Trung Hoa vừa là thứ gì đó rất gần gũi với người Việt. Bao thế kỷ rồi ông bà ta sống với loại thơ nầy, thưởng thức nó và thậm chí học hỏi từ nó. Dịch thơ chữ Hán của Trung Hoa cũng là dịp thưởng thức cái hay của thơ một cách cẩn thận, có dịp khám phá hết các chi tiết sâu thẩm ẩn tàng trong một bài thơ mà khi chỉ đọc qua không thể nào nắm bắt được hết. Dầu thơ chữ Hán là thơ của một nước trong quá khứ từng làm khổ dân ta và hiện tại nhà nước của thứ thơ đó còn có mộng nuốt chửng cả nước ta. Thế nhưng Thơ chữ Hán như một hoàng tử tốt áo. Thiên hạ xúm lại sờ mó, ca tụng tâng bốc đã nhiều, không chỉ người trong các nước Đông Á từng chịu ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc thôi mà cả người của nhiều nước Tây Phương như Anh Mỹ Pháp… nữa cũng thích.

Thơ chữ Hán, dầu hay, đó cũng là thứ gì đó của người nước khác, thuộc một nền văn hóa không phải  là của người Việt trong khi nước ta cũng có thứ tương đương là thơ chữ Hán của người Việt Nam. Gia tài của Mẹ Việt Nam nầy lâu nay chưa được chú ý đúng mức. Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố, Trần Trọng San, Bùi Khánh Đản, Đinh Văn Chấp vừa chỉ giới thiệu và dịch thơ chữ Hán của Trung Quốc, sang quốc ngữ bằng nguyên thể  thường gọi là Đường luật. Các ông nầy đã bỏ quên loại Đường thi của người Việt Nam sáng tác  trong 4, 5 trăm năm người Việt chịu ảnh hưởng của Trung Hoa. Công việc làm lúc đó, 7, 9 chục năm trước có thể là tốt, là chấp nhận được. Nó giúp chúng ta hiểu hơn văn học và văn hóa của người bạn láng giềng khổng lồ Trung Quốc ở phía Bắc. Mặt khác lúc đó, nền văn hóa ảnh hưởng đến người Việt Nam mạnh nhứt phải nói là văn hóa Trung Hoa, sự giới thiệu thơ Trung Hoa cho độc giả Việt là chuyện dĩ nhiên.

Nhưng thời thế đã đổi thay rồi.

Ta, nếu có sở học, nếu có thời giờ, nên trở về với cái thật sự là thành phần gia tài của dân tộc mà dịch thơ chữ Hán của người Việt Nam.

Thơ chữ Hán của Việt Nam có nghệ thuật và có dính dáng đến sinh hoạt văn hóa hay tâm tình thiệt sự của người Việt không nhiều gì, bởi vì, phải thú thiệt một điều đau lòng là, một phần lớn loại thơ nầy được sáng tác để thù tiếp bạn bè hay sáng tác lúc trà dư tửu hậu, vui chơi với kỷ thuật hơn là biểu lộ tâm tình ẩn náo trong lòng người làm thơ. Còn lại thiệt sự có thể kể ra chừng năm bảy chục tập thôi. Nếu coi số lượng đó là gia tài văn chương chữ Hán của người Việt Nam thì thiệt là quá ít, nghĩa là nghèo bàn, khiêm tốn. Thế mà chúng ta không mấy ai biết đến chúng một cách tường tận trong khi thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ và các thi nhân sau đó có cả trăm nhà với cả chục ngàn bài mà quá nhiều người biết, quá nhiều tập thơ dịch công phu và tài hoa… Chuyện của nước người sao mà nhanh nhẩu, còn chuyện của nước ta sao mà thờ ơ thế. Đã đến lúc nên suy nghĩ lại, có đáng chăng bỏ phí thời giờ và tâm huyết vô lo cho đứa con của hàng xóm có cha mẹ đầy đủ trong khi vợ chồng mình thiếu trước hụt sau lại chẳng lo cho con mình?


Thơ chữ Hán của các thiền sư đời Lý (Khánh Hỷ, Bảo Giác, Huyền Quang, Pháp Loa, ..), các vị minh quân đời Trần (Trần Thái Tôn, Trần Thánh Tôn, TRần Nhân Tôn, Trần Minh tôn…) và gần đây là các thi sĩ thứ thiệt như Nguyễn Du, Nguyễn Trải, Nguyễn Xuân Ôn, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định (Gia Định Tam Gia), Kiều Oánh Mậu, Kỳ Đồng, Ngô Thế Vinh, Ngô Đình Thái,  Dương Khuê, Dương Bàng…vẫn chưa được dịch hết, đó là chưa kể có tác giả chưa từng được dịch bài nào, khiến cho cái tên ta nghe tường chừng họ là người Trung Quốc..…

Cái khổ ta là nước nhỏ, văn hóa thì chịu ảnh hưởng của nước lớn, chữ viết cũng lấy của họ làm của mình trong thời gian dài. Bây giờ thì con cháu dầu xa lạ với thứ chữ đó nhưng gia sản văn hóa của ông cha không thể xổ toẹt, coi như không có. Ai có chút Hán học, phải bỏ công dịch tác phẩm chữ Hán của người Việt Nam ra chữ quốc ngữ.

Đó là chuyện phải làm.

Đã đến lúc ta nên quay trở về góp công sức để giới thiệu nền văn hóa của dân tộc, ít nhứt là với người Việt Nam ta, nếu sau nầy có điều kiện, các học giả Việt của thế hệ di dân 2, 3, 4…n,… viết và giới thiệu bằng ngôn ngữ nơi họ sinh sống thì còn gì đáng vui mừng bằng. Và quyển sách dịch thơ của Cao Bá Quát  của Giáo Sư Thái Trọng Lai cung cấp cho chúng ta những điều cần thiết đó. Ông dịch một tác giả Việt Nam bậc thầy và dịch bài nào cũng hay cũng lột hết ý của tác giả….

Thơ văn Cao Bá Quát đã được dịch nhiều lần rồi, không kể thời tiền chiến ở Bắc mỗi người dịch một ít, thời Việt Nam Cộng Hoà, Sa Minh Tạ Thúc Khải dịch gần như toàn bộ rồi, và gần đây Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học ở Sàigòn cũng dịch lại nữa.

Tại sao lại còn có công trình của Giáo Sư Thái Trọng Lai? Theo tôi có  thể là ông thấy tác giả nầy quả thiệt như đời xưng tụng là thánh thơ, nghĩa là ý tứ cao thâm, từ ngữ vi diệu mà mỗi người chỉ cảm nhận được một ít, thiệt chẳng bỏ công  dịch lại lần nữa, chú lại lần nữa.

Đọc thơ văn chữ Hán hiểu hết ý tại ngôn ngoại là điều thích thú nhưng rất hiếm. Chẳng hạn như bài Quỳnh Hải Nguyên Tiêu của Nguyễn Du trongThanh Hiên Thi Tập, tác giả tả trăng coi đó là người con gái đẹp chứ không phải như người con gái đẹp, bây giờ đêm rằm tháng Giêng nàng đang soi sáng nhà ai, có soi sáng nơi vợ mình ở xa xôi chăng (nhớ vợ), có thấy cảnh huynh đệ mình ly tán chăng (thương gia đình mình), có soi được tấm lòng buồn bã của mình bây giờ đây sau những biến đổi chăng (tự thương thân). Nguyễn Du dùng chữ nhữ 汝 (mày, nhà ngươi, em) để chỉ mặt trăng mà có người dịch lại cho rằng chữ nhữ 汝 chỉ vào chính Nguyễn Du!

Vấn đề theo tôi không nằm trong sự đúng sai mà là do người dịch đã chọn chữ không thuyết phục được người xem. Đọc suốt quyển sách Tuyển Dịch Thơ Chữ Hán Cao Bá Quát của Thái Trọng Lai tôi không có nhiều sự-bực-mình-vì-không-đồng-ý tương tợ như sự kiện trên. Đó là ưu điểm lớn, kế bên ưu điểm thơ ông dịch có nhiều thi vị. Hai ưu điểm trên nói thì coi như nhỏ nhưng thực sự muốn đạt được điều nầy người dịch phải có nội lực chữ Hán thâm hậu và có khả năng vận dụng vần điệu thiệt tân kỳ, dễ như lấy chữ trong túi, giúp cho người đọc dễ lý hội, từ đó hiểu rõ hơn con người phản kháng Cao Bá Quát mà thơ Nôm của ông chỉ là những vệt nắng soi qua khóm lá của ánh sáng mặt trời…

Và đây là điều hân hạnh cho người giới thiệu…

 

Nguyễn Văn Sâm  (Victorville, CA, Sept.15, 2012)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi không biết chính xác là Văn Trí đã đặt chân đến Đà Lạt tự lúc nào nhưng cứ theo như ca từ trong nhạc phẩm Hoài Thu của ông thì Cao Nguyên Lâm Viên ngày ấy vẫn hoang vu lắm. Ngoài “núi rừng thâm xuyên”, với “lá vàng rơi đầy miên man”, cùng “bầy nai ngơ ngác” (bên “hồ thu xanh biếc”) thì dường như không còn chi khác nữa! Từ Sài Gòn, khi tôi được bố mẹ “bế” lên thành phố vắng vẻ và mù sương này (vào khoảng giữa thập niên 1950) thì Đà Lạt đã bị đô thị hóa ít nhiều. Nơi đây không còn những “bầy nai ngơ ngác” nữa. Voi, cọp, heo rừng, beo, báo, gấu, khỉ, vượn, nhím, mển, gà rừng, công, trĩ, hươu, nai, trăn, rắn, sóc, cáo, chồn… cũng đều đã biệt tăm. Người Thượng cũng ở cách xa, nơi miền sơn cước.
Vi hiến có nghĩa là “vi phạm” hay đi ngược lại những gì Hiến Pháp (HP) quy định. HP không có gì là cao siêu hay quá bí ẩn. Hiến Pháp trong bản chất chỉ là một bộ luật. Sự khác biệt chỉ là: HP là một bộ luật nền tảng hay nôm na là “luật mẹ”. Không những không cá nhân hay hữu thể pháp lý nào trong xã hội, kể cả hành pháp (tức chính phủ) được quyền vi phạm HP, mà không một luật pháp nào của lập pháp (tức quốc hội) được quyền vi phạm HP cả...
Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục đi theo đường mòn Chủ nghĩa đã lu mờ trong thưc tế và thất bại trong hành động tại Đại hội đảng kỳ 14 vào tháng 1 năm 2026. Khẳng định này của ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng là bằng chứng cho tính chai lỳ, chậm tiến và lạc hậu, không phải của riêng ông mà toàn đảng...
Thứ Bảy 24/2/2024 đánh dấu hai năm kể từ khi Nga phát động cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện nước Ukraine. Cuộc xung đột đang lâm vào tình trạng bế tắc và ngày càng tàn khốc. Nhân dịp này ông Nick Schifrin, một phát thanh viên của kênh truyền hình PBS, đã tổ chức một buổi thảo luận bàn tròn về hiện tình của cuộc chiến, nó có thể đi đến đâu và chính sách của Hoa Kỳ đối với Ukraine sẽ ra sao. Hiện diện trong buổi thảo luận có các ông Michael Kofman, John Mearsheimer và bà Rebeccah Heinrichs...
Đôi lời từ tác giả: “Sẽ có nhiều người không thích bài viết này. Họ sẽ cảm thấy bị công kích và rằng thật bất công. Phản ứng càng mạnh mẽ càng cho thấy nỗi sợ hãi về chủng tộc đã cắm rễ sâu vào nền chính trị Hoa Kỳ, và sẽ tồn tại mãi.” Tầm quan trọng của vấn đề chủng tộc trong nền chính trị của chúng ta được thể hiện rõ ràng qua chiến dịch tranh cử tổng thống hiện tại. Khẩu hiệu (slogan) đình đám nhất là từ chiến dịch tranh cử của Donald Trump: “MAGA” – Make America Great Again (Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại). Ý của slogan này là Hoa Kỳ đã từng rất vĩ đại, nhưng đã và đang đánh mất hào quang của mình.
Sau 11 năm chống Tham nhũng (2013-2024) nhưng Tham nhũng cứ trơ ra cười vào mũi Đảng là tại sao?
Thời gian gần đây, những người thương vay khóc mướn ở Việt Nam thường đem vấn đề Chủ nghĩa Xã hội và đảng có quyền một mình lãnh đạo ra hù họa dư luận. Tuy nhiên, càng vênh váo và cù nhầy bao nhiêu lại càng lâm vào thế bí. Những bài viết không trả lời được câu hỏi: Ai đã trao quyền lãnh đạo cho Đảng, và tại sao Đảng sợ Dân chủ đến thế?
Cận Tết năm Thìn, Marianne Brown (Guardian Weekly) có bài “Vietnam’s parents want a dragon son.” Trời! Tưởng gì, chớ cả Tầu lẫn Ta ai mà không muốn có con trai tuổi Rồng. Nhâm Thìn, tất nhiên, lại càng bảnh dữ nữa. Nam nhâm nữ quí thì sang mà lị. Theo tuviso.com: “Tuổi Nhâm Thìn có nhiều hy vọng tốt đẹp về vấn đề tình duyên và tương lai về cuộc sống, có phần tốt đẹp về tình cảm và tài lộc, vào trung vận và hậu vận thì được nhiều tốt đẹp về hạnh phúc, công danh có phần lên cao.”
Một quan điểm lạc quan đang dấy lên trong hàng ngũ Lãnh đạo đảng CSVN khi bước vào năm 2024, nhưng thực tế tiềm ẩn những khó khăn chưa lường trước được...
Nếu Donald Trump giành lại được Nhà Trắng vào tháng 11, năm nay có thể đánh dấu một bước ngoặt đối với quyền lực của Mỹ. Cuối cùng, nỗi sợ hãi về tình trạng suy tàn đã khiến cho người Mỹ bận tâm kể từ thời thuộc địa sẽ được biện minh. Hầu hết người Mỹ tin rằng, Hoa Kỳ trong tình trạng suy tàn, Donald Trump tuyên bố rằng ông có thể “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”. Nhưng tiền đề của Trump đơn giản là sai, và các biện pháp trị liệu được ông đề xuất đặt ra mối đe dọa lớn nhất đối với nước Mỹ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.