Hôm nay,  

Nghĩ Từ Quyển Sách Dịch Thơ Cao Bá Quát

04/02/201800:00:00(Xem: 4087)
Người Việt dính dáng với văn chương thơ phú của Việt Nam đa số thích thơ Đường. Ai có tâm hồn nghệ sĩ hơn và  đam mê hơn thường nghêu ngao ngâm nga thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Xương Linh, Mạnh Hạo Nhiên, Liễu Tôn Nguyên, Bạch Cư Dị… để tự mình tìm tòi cái hay đẹp của chính nguyên tác. Vẫn chưa đủ, họ nghiền ngẫm bài dịch các bài thơ nầy để mong hiểu thêm nữa mà khi đọc nguyên tác chưa hiểu hết ý. Có người lại dùng thời giờ và sở học của mình dịch từng tập dầy thơ Đường ra quốc ngữ để cho riêng mình thưởng thức. Họ rất sung sướng khi thấy một chữ mình dịch thiệt là đắc thể, đúng chỗ, lột được ý của nguyên tác. Thậm chí có người không biết chữ Hán hay lỏm bỏm vài ba chữ cũng nhảy vô dịch, căn cứ trên những bản dịch có sẵn từ trước, thay đổi một vài chữ hay một vài nhóm từ.  Cách dịch dễ nhứt là căn cứ trên bản dịch của ai đó giúp mình hiểu ý bài thơ làm căn cứ rồi diễn dịch lại bằng câu thơ mà vần là vần của nguyên tác. Cách nầy phổ thông nhứt khiến cho có cảnh tượng mà tôi không biết là đáng vui hay buồn: anh dịch, tôi dịch, nó dịch, chúng ta cùng dịch thơ chữ Hán.

Chuyện ưa thích và đi đến tình trạng sính thơ chữ Hán đến tuyệt đỉnh như vậy không có gì đáng chê trách vì thơ Đường nói riêng và nói chung các thứ thơ của những đời trước hay sau đó của Trung Quốc vừa là tài sản văn hóa của nước Trung Hoa vừa là thứ gì đó rất gần gũi với người Việt. Bao thế kỷ rồi ông bà ta sống với loại thơ nầy, thưởng thức nó và thậm chí học hỏi từ nó. Dịch thơ chữ Hán của Trung Hoa cũng là dịp thưởng thức cái hay của thơ một cách cẩn thận, có dịp khám phá hết các chi tiết sâu thẩm ẩn tàng trong một bài thơ mà khi chỉ đọc qua không thể nào nắm bắt được hết. Dầu thơ chữ Hán là thơ của một nước trong quá khứ từng làm khổ dân ta và hiện tại nhà nước của thứ thơ đó còn có mộng nuốt chửng cả nước ta. Thế nhưng Thơ chữ Hán như một hoàng tử tốt áo. Thiên hạ xúm lại sờ mó, ca tụng tâng bốc đã nhiều, không chỉ người trong các nước Đông Á từng chịu ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc thôi mà cả người của nhiều nước Tây Phương như Anh Mỹ Pháp… nữa cũng thích.

Thơ chữ Hán, dầu hay, đó cũng là thứ gì đó của người nước khác, thuộc một nền văn hóa không phải  là của người Việt trong khi nước ta cũng có thứ tương đương là thơ chữ Hán của người Việt Nam. Gia tài của Mẹ Việt Nam nầy lâu nay chưa được chú ý đúng mức. Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố, Trần Trọng San, Bùi Khánh Đản, Đinh Văn Chấp vừa chỉ giới thiệu và dịch thơ chữ Hán của Trung Quốc, sang quốc ngữ bằng nguyên thể  thường gọi là Đường luật. Các ông nầy đã bỏ quên loại Đường thi của người Việt Nam sáng tác  trong 4, 5 trăm năm người Việt chịu ảnh hưởng của Trung Hoa. Công việc làm lúc đó, 7, 9 chục năm trước có thể là tốt, là chấp nhận được. Nó giúp chúng ta hiểu hơn văn học và văn hóa của người bạn láng giềng khổng lồ Trung Quốc ở phía Bắc. Mặt khác lúc đó, nền văn hóa ảnh hưởng đến người Việt Nam mạnh nhứt phải nói là văn hóa Trung Hoa, sự giới thiệu thơ Trung Hoa cho độc giả Việt là chuyện dĩ nhiên.

Nhưng thời thế đã đổi thay rồi.

Ta, nếu có sở học, nếu có thời giờ, nên trở về với cái thật sự là thành phần gia tài của dân tộc mà dịch thơ chữ Hán của người Việt Nam.

Thơ chữ Hán của Việt Nam có nghệ thuật và có dính dáng đến sinh hoạt văn hóa hay tâm tình thiệt sự của người Việt không nhiều gì, bởi vì, phải thú thiệt một điều đau lòng là, một phần lớn loại thơ nầy được sáng tác để thù tiếp bạn bè hay sáng tác lúc trà dư tửu hậu, vui chơi với kỷ thuật hơn là biểu lộ tâm tình ẩn náo trong lòng người làm thơ. Còn lại thiệt sự có thể kể ra chừng năm bảy chục tập thôi. Nếu coi số lượng đó là gia tài văn chương chữ Hán của người Việt Nam thì thiệt là quá ít, nghĩa là nghèo bàn, khiêm tốn. Thế mà chúng ta không mấy ai biết đến chúng một cách tường tận trong khi thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ và các thi nhân sau đó có cả trăm nhà với cả chục ngàn bài mà quá nhiều người biết, quá nhiều tập thơ dịch công phu và tài hoa… Chuyện của nước người sao mà nhanh nhẩu, còn chuyện của nước ta sao mà thờ ơ thế. Đã đến lúc nên suy nghĩ lại, có đáng chăng bỏ phí thời giờ và tâm huyết vô lo cho đứa con của hàng xóm có cha mẹ đầy đủ trong khi vợ chồng mình thiếu trước hụt sau lại chẳng lo cho con mình?


Thơ chữ Hán của các thiền sư đời Lý (Khánh Hỷ, Bảo Giác, Huyền Quang, Pháp Loa, ..), các vị minh quân đời Trần (Trần Thái Tôn, Trần Thánh Tôn, TRần Nhân Tôn, Trần Minh tôn…) và gần đây là các thi sĩ thứ thiệt như Nguyễn Du, Nguyễn Trải, Nguyễn Xuân Ôn, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định (Gia Định Tam Gia), Kiều Oánh Mậu, Kỳ Đồng, Ngô Thế Vinh, Ngô Đình Thái,  Dương Khuê, Dương Bàng…vẫn chưa được dịch hết, đó là chưa kể có tác giả chưa từng được dịch bài nào, khiến cho cái tên ta nghe tường chừng họ là người Trung Quốc..…

Cái khổ ta là nước nhỏ, văn hóa thì chịu ảnh hưởng của nước lớn, chữ viết cũng lấy của họ làm của mình trong thời gian dài. Bây giờ thì con cháu dầu xa lạ với thứ chữ đó nhưng gia sản văn hóa của ông cha không thể xổ toẹt, coi như không có. Ai có chút Hán học, phải bỏ công dịch tác phẩm chữ Hán của người Việt Nam ra chữ quốc ngữ.

Đó là chuyện phải làm.

Đã đến lúc ta nên quay trở về góp công sức để giới thiệu nền văn hóa của dân tộc, ít nhứt là với người Việt Nam ta, nếu sau nầy có điều kiện, các học giả Việt của thế hệ di dân 2, 3, 4…n,… viết và giới thiệu bằng ngôn ngữ nơi họ sinh sống thì còn gì đáng vui mừng bằng. Và quyển sách dịch thơ của Cao Bá Quát  của Giáo Sư Thái Trọng Lai cung cấp cho chúng ta những điều cần thiết đó. Ông dịch một tác giả Việt Nam bậc thầy và dịch bài nào cũng hay cũng lột hết ý của tác giả….

Thơ văn Cao Bá Quát đã được dịch nhiều lần rồi, không kể thời tiền chiến ở Bắc mỗi người dịch một ít, thời Việt Nam Cộng Hoà, Sa Minh Tạ Thúc Khải dịch gần như toàn bộ rồi, và gần đây Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học ở Sàigòn cũng dịch lại nữa.

Tại sao lại còn có công trình của Giáo Sư Thái Trọng Lai? Theo tôi có  thể là ông thấy tác giả nầy quả thiệt như đời xưng tụng là thánh thơ, nghĩa là ý tứ cao thâm, từ ngữ vi diệu mà mỗi người chỉ cảm nhận được một ít, thiệt chẳng bỏ công  dịch lại lần nữa, chú lại lần nữa.

Đọc thơ văn chữ Hán hiểu hết ý tại ngôn ngoại là điều thích thú nhưng rất hiếm. Chẳng hạn như bài Quỳnh Hải Nguyên Tiêu của Nguyễn Du trongThanh Hiên Thi Tập, tác giả tả trăng coi đó là người con gái đẹp chứ không phải như người con gái đẹp, bây giờ đêm rằm tháng Giêng nàng đang soi sáng nhà ai, có soi sáng nơi vợ mình ở xa xôi chăng (nhớ vợ), có thấy cảnh huynh đệ mình ly tán chăng (thương gia đình mình), có soi được tấm lòng buồn bã của mình bây giờ đây sau những biến đổi chăng (tự thương thân). Nguyễn Du dùng chữ nhữ 汝 (mày, nhà ngươi, em) để chỉ mặt trăng mà có người dịch lại cho rằng chữ nhữ 汝 chỉ vào chính Nguyễn Du!

Vấn đề theo tôi không nằm trong sự đúng sai mà là do người dịch đã chọn chữ không thuyết phục được người xem. Đọc suốt quyển sách Tuyển Dịch Thơ Chữ Hán Cao Bá Quát của Thái Trọng Lai tôi không có nhiều sự-bực-mình-vì-không-đồng-ý tương tợ như sự kiện trên. Đó là ưu điểm lớn, kế bên ưu điểm thơ ông dịch có nhiều thi vị. Hai ưu điểm trên nói thì coi như nhỏ nhưng thực sự muốn đạt được điều nầy người dịch phải có nội lực chữ Hán thâm hậu và có khả năng vận dụng vần điệu thiệt tân kỳ, dễ như lấy chữ trong túi, giúp cho người đọc dễ lý hội, từ đó hiểu rõ hơn con người phản kháng Cao Bá Quát mà thơ Nôm của ông chỉ là những vệt nắng soi qua khóm lá của ánh sáng mặt trời…

Và đây là điều hân hạnh cho người giới thiệu…

 

Nguyễn Văn Sâm  (Victorville, CA, Sept.15, 2012)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chỉ ba tháng sau khi Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ lên cấp cao nhất trong hệ thống phân cấp ngoại giao trong chuyến thăm của Tổng thống Biden, người ta thấy Chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc đã trở thành nhà lãnh đạo thế giới mới nhất tăng cường quan hệ với Việt Nam với chuyến thăm Hà Nội trong tuần này...
Chuyến thăm Việt Nam hai ngày của Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình đã để lại nhiều hệ lụy cho nhân dân Việt Nam hơn bao giờ hết. Bằng chứng này được thể hiện trong Tuyên bố chung ngày 13/12/2023 theo đó họ Tập thay quan điểm “cộng đồng chung vận mệnh” bằng “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai” cho hai nước...
Sự ra đi của nhà tư tưởng và thực hành xuất sắc về chính sách đối ngoại của Mỹ đánh dấu một kỷ nguyên kết thúc. Trong suốt sự nghiệp lâu dài và có ảnh hưởng phi thường của mình, Henry Kissinger đã xây dựng một di sản mà người Mỹ sẽ khôn ngoan chú ý trong kỷ nguyên mới của nền chính trị cường quốc và sự xáo trộn trong toàn cầu. Thật khó để tưởng tượng rằng thế giới mà không có Henry Kissinger, không chỉ đơn giản vì ông sống đến 100 tuổi, mà vì ông chiếm một vị trí có ảnh hưởng và đôi khi chế ngự trong chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của Mỹ trong hơn nửa thế kỷ.
“Tham nhũng kinh tế” ở Việt Nam đã trở thành “quốc nạn”, nhưng “tham nhũng quyền lực” do chính đảng viên gây ra để thu tóm quyền cai trị mới khiến Đảng lo sợ. Đó là nội dung đang được phổ biến học tập để đề phòng và bảo vệ chế độ do Ban Nội chính Trung ương công bố...
“Trong năm 2023 còn nhiều vấn đề đáng lo ngại, gây bất an cho xã hội. Các tội phạm trên các lĩnh vực tiếp tục gia tăng toàn quốc xảy ra 48.100 vụ phạm tội và trật tự xã hội tăng 18%.”
Việt Nam đang thương lượng mua chiến đấu cơ F-16 của Mỹ để tăng cường bảo vệ an ninh trước đe dọa ngày một lên cao của Trung Quốc ở Biển Đông. Tin này được truyền miệng ở Hoa Thịnh Đốn, tiếp theo sau chuyến thăm Việt Nam 2 ngày 10-11 tháng 9/2023 của Tổng thống Joe Biden. Tuy nhiên, các viên chức thẩm quyền của đôi bên không tiết lộ số lượng F-16 mà Việt Nam có thể mua với giá 30 triệu dollars một chiếc...
Số năm tháng tôi nằm trong tù chắc ít hơn thời gian mà nhà thơ Nguyễn Chí Thiện ngồi trong nhà mét (W.C) và có lẽ cũng chỉ bằng thời gian ngủ trưa của nhà văn Vũ Thư Hiên, ở trại Bất Bạt, Sơn Tây. Bởi vậy, sau khi đọc tác phẩm Hỏa Lò và Đêm Giữa Ban Ngày của hai ông (rồi đọc thêm Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, Thung Lũng Tử Thần của Vũ Ánh, và Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp) thì tôi tự hứa là không bao giờ viết lách gì vể chuyện nhà tù, trại tù hay người tù nào cả.
Càng gần đến Đại hội đảng toàn quốc khóa XIV (2026-2031), đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) càng ra sức kiên định 4 nguyên tắc được coi là “có ý nghĩa sống còn đối với chế độ.”
Trời mưa thì buồn. Trời nắng thì vui. Mưa nhiều quá gây lụt lội, trở thành thảm cảnh. Nắng quá độ gây khô hạn, cháy mùa màng, gây đói khổ. Gọi là thiên tai. Có nghĩa thảm họa do trời gây ra. Hoặc chữ “thiên” đại diện cho thiên nhiên. Nhưng gần đây, vấn nạn khí hậu biến đổi, gây ra nhiều “thiên tai” có thể gọi lại là “thiên nhân tai,” vì con người góp phần lớn tạo ra khốn khổ cho nhau. “Thiên nhân tai,” nghe lạ mà có đúng không? Nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu là hiệu ứng nhà kính. Một số loại khí trong bầu khí quyển bao quanh trái đất hoạt động hơi giống như gương kính trong nhà kính, giữ nhiệt của mặt trời và ngăn nó trở lại không gian, gây ra hiện tượng nóng lên cho toàn cầu. Nhiều loại khí nhà kính này xuất hiện một cách tự nhiên, nhưng các hoạt động của con người đang làm tăng nồng độ của một số loại khí này trong khí quyển, cụ thể là: Cacbon dioxit (CO2), khí mê-tan, nitơ oxit, khí florua
Tuy lịch sử không nói đến, nhưng nếu chịu khó lục lọi đây đó, người ta sẽ tìm ra một giai thoại khá thú vị về việc bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam được Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc trong buổi lễ trước công chúng tại vườn hoa Ba Đình (nay là Quảng trường Ba Đình) ngày 2 tháng 9 năm 1945. Theo tường thuật của nhà báo Hồng Hà trên báo Cứu Quốc của Việt Minh, ông Nguyễn Hữu Đang là người đọc chương trình buổi lễ và giới thiệu Chính phủ Lâm thời cùng chủ tịch Chính phủ đọc Tuyên ngôn Độc lập. Ông Nguyễn Hữu Đang là Trưởng ban Tổ chức Lễ đài, ông chính là người đứng trước micro giới thiệu: “Thưa đồng bào... Đây là Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh.” Nói xong, ông lùi lại, nhường micro cho Hồ Chí Minh.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.