Hôm nay,  

Lữ Quỳnh Với Những Con Chữ Lang Thang Không Ngày Tháng

26/11/201600:00:00(Xem: 5574)

Hình dung thế nào về tác giả Lữ Quỳnh? Như một nhà thơ, hay như một nhà văn, hay như một người chiêm ngắm cuộc đời? Nhìn từ bất cứ hướng nào, có lẽ cũng không đủ chữ để nói về Lữ Quỳnh, một tài năng văn học rất mực đa dạng.

Nhà văn Nguyễn Mộng Giác nhìn về Lữ Quỳnh: “Ôi, thời đó chúng tôi lãng mạn biết chừng nào, ngây thơ biết chừng nào…”

Nhà thơ Du Tử Lê nói về họ Lữ: “…đọc lại những trang văn của Lữ Quỳnh, tôi vẫn còn nghe thoảng hương thơm của lòng nhân hậu.”

Nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ nhận ra nơi Lữ Quỳnh là: “Nhà thơ, như một hành giả đang lặng lẽ Nhìn, lặng lẽ Thấy và lặng lẽ Nghe.”

Nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh nhìn thấy nơi Lữ Quỳnh như một: “…thi sĩ đi trong thời gian của mình những bước thao thức của giấc mơ, người thơ Lữ Quỳnh.”

Tuyển tập mới ấn hành của Lữ Quỳnh có nhan đề “Những Con Chữ Lang Thang Không Ngày Tháng” đã cho thấy tác giả hiện ra đa dạng hơn, phức tạp hơn, rất mực tài năng và đúng như các tác giả trên nhận xét về họ Lữ: lãng mạn và ngây thơ, trên các trang văn thoảng hương thơm của lòng nhân hậu, nhà thơ hành giả lặng lẽ nhìn và nghe, và đi trong những bước thao thức của giấc mơ…

Tuyển tập gồm nhiều phần: thơ, thơ chuyển ngữ, truyện ngắn, truyện vừa, ký, tạp văn, bài của bằng hữu.

blank
Bìa tuyển tập “Những Con Chữ Lang Thang Không Ngày Tháng.”

Trong các bài thơ của Lữ Quỳnh, bài Áng Mây Vàng nơi trang 9, nói về mẹ chắc chắn sẽ làm xúc động tất cả độc giả:

giọt nước đựng trời mây
tàn hương bay lấp lánh
lắt lay bóng mẹ về
tóc con chừ điểm bạc
.
tám năm ngày mẹ đi
vẫn nụ cười trên mộ
trần gian đường gập ghềnh
hoàng hôn đời lệ nhỏ
.
một năm rồi mười năm
chỉ dài như hơi thở
thanh tịnh quang chân tâm
áng mây vàng tưởng niệm…

Trong khi đó nhà văn Khuất Đẩu ghi nhận rằng một bài thơ của Lữ Quỳnh có thể gọi là hay nhất trong các bài thơ về tình nghĩa phu thê.

Khuất Đẩu trong bài phân tích “Những hồi ức buồn” đã viết, trích:

“...Tôi xin chép trọn bài thơ mà tôi cho là đẹp nhất, một bài tụng ca tình nghĩa phu thê còn đằm thắm lung linh hơn cả bài “Tình quê” của Hàn Mặc Tử.

Em vẫn đi về
Dòng sông ký ức
Vầng trăng đại vực
In bóng thuyền tôi
.
Tóc em mây trôi
Trên sông áo lụa
Thuyền tôi hạt lúa
Vàng lung linh vàng
.
Một chuyến đò ngang
Sông xưa mất ngủ
Từ em thiếu phụ
Lúa vàng thôi trôi
.
Từ em thiếu phụ
Tóc rối vành nôi
Hồn xanh bóng phủ
U uẩn lời ru
.
Sông em sóng nổi
Hạt lúa thuyền tôi
Vàng không bến đậu
Mù sa bãi bồi.”

Trong khi đó nhà văn Nguyễn Mộng Giác khi sinh tiền trong bài viết “Những Ảo Tưởng Một Thời” đã ghi nhận về Lữ Quỳnh, một bạn văn từ những năm đầu thập niên 70, thời đất nước còn chìm trong nội chiến:

“… Thế hệ chúng tôi, thế hệ của Lữ Quỳnh, cũng có những ảo tưởng khác. Đọc lại truyện cũ chúng tôi viết ở Quy Nhơn thời đó, không hiểu sao chúng tôi thích dựng truyện trong một khung cảnh khá khác thường: truyện xảy ra trong vùng xôi đậu, có bên này và bên kia một dòng sông, có cây cầu bắc qua hay con đò lặng lẽ lén lút chèo giữa đám sương mù. Lữ Quỳnh có Sông sương mù. Tôi có Cây cầu tuổi dại. Chiến tranh lúc đó đối với chúng tôi là một điều phi lý, dù không ai thoát ra khỏi được cuộc chiến tranh ấy. Cho nên người bên này hay bên kia đều dễ thương như nhau, ít ra là “dễ thương như nhau” qua đôi mắt trẻ thơ của bé Phượng trong Sông sương mù. Mà những người dễ thương như thế thì không có lý do chính đáng nào để ghét nhau, nói chi đến chuyện thù nhau, rồi tìm cách giết nhau. Chỉ cần nắng lên và sương mù tan hết, cuộc sống sẽ trong sáng, người ta nhìn thẳng vào mặt nhau để thấy người đối diện thật xứng đáng để thương yêu. Ôi, thời đó chúng tôi lãng mạn biết chừng nào, ngây thơ biết chừng nào. Những kẻ nắm trong tay quyền lực để sai khiến lịch sử chắc “cười đến chảy nước mắt” sự ngây thơ của chúng tôi. Chúng tôi bị gọi là “ngụy hòa”, là “nhân đạo chung chung”, là “tung hỏa mù xóa nhòa ranh giới giữa chiến tranh xâm lược và chiến tranh giải phóng” … Những thứ tội tầy đình ấy chúng tôi phải lắng nghe, tự xưng tội công khai mà lòng ấm ức. Nhưng khi cơn bão đã qua, như lúc viết những dòng này, chúng tôi không thấy hổ thẹn với lòng tin ngây thơ ấy. Chúng tôi dù sao cũng còn tin ở lòng tốt của con người. Không tin, thì còn biết làm sao với cuộc sống mà mình không được quyền lựa chọn? Không tin, mình còn biết chơi với ai?”

Nghĩa là, theo Nguyễn Mộng Giác, Lũ Quỳnh và nhiều nhà văn cùng thế hệ mang đầy những ảo tưởng, bên này bên kia đều dễ thương như nhau, lãng mạn và ngây thơ, tin vào lòng tốt của con người…

Trong khi đó, nhà thơ Du Tử Lê nhìn về Lữ Quỳnh:

“…Hôm nay, đọc lại những trang văn của Lữ Quỳnh, tôi vẫn còn nghe thỏang hương thơm của lòng nhân hậu. Hay, tính-lành của một con người không bị ô nhiễm bởi lầm than, nguy nàn, tổ quốc.


Hôm nay, đọc lại những trang văn của Lữ Quỳnh, tôi vẫn còn nghe được tiếng reo vui, hân hoan của những con chữ búng mình trên mặt sông máu / xương gập ghềnh nghiệt, oan vận nước.

Hôm nay, đọc lại những trang văn của Lữ Quỳnh, tôi vẫn còn nghe được những hồi chuông, khánh tình yêu thao thiết. Hay, những ngọn nến cháy bằng tim bấc trăm năm, giữa nghìn sao rung động, thứ nhất.

Hôm nay, đọc lại những trang văn của Lữ Quỳnh, tôi cũng còn nghe được tiếng gọi rộn rã thanh niên, đi ra từ trái tim sóng sánh nhiệt-hứng-trẻ-thơ tình bằng hữu…”

Nghĩa là, theo Du Tử Lê, trang văn Lữ Quỳnh có thoảng hương thơm của lòng nhân hậu, âm vang những hồi chuông, khánh tình yêu thao thiết…

Trong khi đó, nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ nhìn về nhà thơ Lữ Quỳnh:

“Nhà thơ đã nhập thân vào Mây. Mây tinh khiết như giấc mơ. "lời vô ngôn / những giấc mơ nồng nàn / lạ lẫm" để rồi, "sáng ra không nhớ gì / chỉ là cõi hoang / chập chờn mây và mây". Thực và Mộng nhất quán trong cõi Thanh Tịnh miên viễn. Thơ đã dậy lên màu hương chín để cất lên tiếng hát diệu kỳ giữa thinh không diệu vợi!

"Mây Trong Những Giấc Mơ" đã có những chiêm nghiệm thật sâu lắng về Không-Thời-Gian, vẫn thấm đẫm Tình Đời, Tình Người. Nhà thơ, như một hành giả đang lặng lẽ Nhìn, lặng lẽ Thấy và lặng lẽ Nghe. "Mây Trong Những Giấc Mơ" cũng chính là những tâm tình chân thành nhất mà nhà thơ muốn trao gửi đến bạn đọc và bằng hữu xa gần.”

Nghĩa là, theo Nguyễn Lương Vỵ, Lữ Quỳnh là Thực và Mộng nhất quán, là tiếng hát diệu kỳ, là chiêm nghiệm thật sâu lắng, như một hành giả đang lặng lẽ Thấy và Nghe…

Trong khi đó, nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh nhìn về nhà thơ Lữ Quỳnh:

“…đến từ miền bắc Calif. miền đất nở ra một thung lũng hoa vàng thơ mộng, nên thi sĩ đi trong thời gian của mình những bước thao thức của giấc mơ, người thơ Lữ Quỳnh…

…Ánh sáng nhất trong dòng thơ Lữ Quỳnh là tình bạn. Và ẩn chìm trong ánh sáng ấy là con mắt của giấc mơ. Vì, trong những giờ phút đẹp, thực của cuộc sống Lữ Quỳnh cũng dùng con mắt giấc mơ để hưởng thụ nó, để cảm xúc vui buồn cùng nó. Như một nghệ thuật (hay kinh nghiệm?) để trộn lẫn giữa thực và phi thực. Cái phi thực là áo khoác của thơ mộng lên tất cả những niềm vui lẫn đau buồn, trong thơ Lữ Quỳnh…

Tôi nghĩ, anh quý thương bạn bè, và anh đã được hạnh phúc chia cùng họ, rất thực, những phút giây đẹp đẽ, đẹp đến nỗi anh cho nó là giấc mơ. Mơ trong lúc sống thực nhé. Rồi khi một mình anh lại sống thêm một lần nữa thời khắc ấy, bằng giấc mơ. Trời ạ, người thơ sao biết sống quá vậy! Bởi vì lúc tỉnh hay mơ anh đều mơ cả… Cho nên, cái lúc tỉnh ra thấy quạnh hiu kia, tôi nghĩ, chắc nó chỉ xảy ra ở vào giấc ngủ cuối cùng, cho đến khi anh nhắm con mắt của giấc mơ…”

Trong phần Thơ Chuyển Ngữ, một số bài được dịch ra Anh văn và Pháp văn. Các dịch giả chuyển ngữ là: Trương Văn Dân, Elena Pucillo Truong, N. Sao Mai, Phan Tấn Hải.

Trong phần Bài của bằng hữu, là các bài của: Nguyên Minh, Huỳnh Như Phương, Đinh Cường, Nguyễn Mộng Giác, Trần Thị Nguyệt Mai, Du Tử Lê, Lữ Kiều, Nguyễn Mạnh Trinh, Nguyễn Thị Khánh Minh, Nguyễn Thị Hải Hà, Trần Hoài Thư, Luân Hoán, Nguyễn Lệ Uyên, Trần Văn Nam, Đỗ Nghê, Đỗ Hồng Ngọc, Cao Kim, Khuất Đẩu, Nguyễn Xuân Thiệp, Huyển Chiêu, Nguyễn Quang Chơn, Phan Tấn Hải, Nguyễn Lương Vỵ, Trần Huiền Ân, Lê Ký Thương, Trần Đình Sơn Cước, Nguyễn Chí Kham.

Lữ Quỳnh tên thật là Phan Ngô, sinh năm 1942 tại Thừa Thiên – Huế. Cha mất lúc một tuổi, thuở nhỏ phần lớn ông sống tự lập. Từ năm 1959 đến 1962 ông là học sinh trường Quốc Học Huế. Năm 1962-1963 dạy học tại trường Bán công Vinh Lộc.

Lữ Quỳnh là cựu Sĩ Quan VNCH (Khóa 19 Trường Bộ Binh Thủ Đức), phục vụ tại các đơn vị: Tổng Y Viện Duy Tân – Đà Nẵng (năm 1965-66), Tiểu đoàn 22 Quân Y -Bình Định (năm 1967-70), Quân Y Viện Quy Nhơn (năm 1971-75). Ông có mười năm sống ở Quy Nhơn.

Sau 1975, ông bị tù cải tạo ở trại Cồn Tiên, Ái Tử (Quảng Trị). Năm 2000 Lữ Quỳnh sang định cư tại San Jose, California.

Lữ Quỳnh đã sáng tác từ cuối thập niên 1950s, cộng tác với nhiều tạp chí trong và ngoài nước, đã ấn hành nhiều tác phẩm thơ, tập truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài, ký…

Nhìn thời gian trôi qua, với rất nhiều bạn thân đã ra đi bên đời, Lữ Quỳnh có lúc ngậm ngùi viết:

…tháng tư dành tưởng niệm. ngậm ngùi
sao người đi nhiều hơn kẻ ở
tôi ngồi chép A Di Đà Sám
thay làm thơ cho một cõi đi về…

Tuyển tập “Những Con Chữ Lang Thang Không Ngày Tháng” của Lữ Quỳnh đã có trên Amazon.com (Search chữ: “lu quynh”). Tuyển tập dày 548 trang.

Độc giả có thể liên lạc với tác giả qua email: songsuongmu@yahoo.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tập Cận Bình tin rằng lịch sử đang dịch chuyển theo hướng có lợi cho mình. Trong chuyến thăm Vladimir Putin tại Matxcơva vào tháng 3 năm ngoái, nhà lãnh đạo Trung Quốc nói với Tổng thống Nga rằng “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Sau 20 năm chiêu dụ Kiều bào về giúp nước không thành công, đảng CSVN lại tung ta Dự án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” vào dịp Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024. Đây là lần thứ tư, từ khi có Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, một Quyết định nhằm mưu tìm đầu tư, hợp tác khoa học, kỹ thuật và tổ chức các Hội, Đoàn người Việt ở nước ngoài, đặt dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN được tung ra...
Khi số lượng di dân vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico tăng cao kỷ lục, câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại rơi vào tình trạng này, và Hoa Kỳ có thể học hỏi những gì từ cách các quốc gia khác ứng phó với các vấn đề an ninh biên giới và nhập cư. Chào đón công dân nước ngoài đến với đất nước của mình là một việc khá quan trọng để giúp cải thiện tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, nguồn cung ứng lao động và đa dạng văn hóa. Nhưng những di dân vào và ở lại Hoa Kỳ mà không có thị thực hoặc giấy tờ hợp lệ có thể gây ra nhiều vấn đề – cho chính bản thân họ và cho cả chính quyền địa phương bởi tình trạng quá tải không thể kịp thời giải quyết các trường hợp xin tị nạn tại tòa án nhập cư, hoặc cung cấp nơi ở tạm thời và các nhu cầu cơ bản khác. Mà tình trạng này hiện đang xảy ra ở rất nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
Tôi nghe nhiều người tỏ ý bi quan về hiện cảnh cũng như tương lai (đen tối) của Việt Nam. Dân tộc nào, số phận đó. Một đất nước có những người viết sử và làm luật (cỡ) như ông Dương Trung Quốc thì… đen là phải!
Việt Nam bước vào năm Giáp Thìn 2024 với gánh nặng tham nhũng và một đội ngũ “không nhỏ” cán bộ, đảng viên suy thoái đạo đức lối sống. Đó là cảnh báo của người đứng đầu đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng, trong cuộc phỏng vấn đầu năm của Thông Tấn Xã Việt Nam...
Từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Triết gia Mạnh Tử (372-289 BC) của Trung Hoa đã nói rằng, “Dân là quý, thứ đến đất nước, rồi tới vua.” Điều đáng nói là Mạnh Tử là người đi theo học thuyết của Nho Gia vốn chủ trương vua là con ông Trời (Thiên tử) được sai xuống nhân gian để trị quốc an dân, vậy mà cũng không thể phủ nhận vai trò quan trọng, nếu không muốn nói là tối quan trọng của người dân. Thời hiện đại, công pháp quốc tế đã nêu ba yếu tố chính hình thành một quốc gia: người dân, lãnh thổ và chính quyền. Trong đó, thật ra người dân chính là yếu tố then chốt quyết định. Lãnh thổ nếu không có dân ở, không có người quản trị thì không phải là đất nước của một dân tộc. Chính quyền từ người dân mà ra, bởi vì trước khi một người ra nắm quyền cai trị đất nước thì người đó phải là một người dân của đất nước ấy. Hơn nữa, sự thịnh suy của một quốc gia nằm trong tay người dân.
“Phản động lực” mà người Đài Loan thể hiện trong cuộc bầu cử tổng thống vừa rồi khiến tôi, sau những suy nghĩ miên man về chuyện nước non, lại quay về với bài học yêu nước của thời tiểu học với câu hỏi khó, khiến nhiều học trò gác bút: “Em hãy tìm từ phản nghĩa với ‘tôn đại’.” Trung Quốc càng hung hăng đe dọa bao nhiêu, Đài Loan càng quật cường ngạo nghễ bấy nhiêu. Mà nếu Bắc Kinh ngu ngơ hay vờ vịt không biết gì đến định luật này thì, thầy nào tớ đó, Hà Nội cũng mù tịt hay giả bộ tương tự. Họặc mù tịt như thể đã hoàn toàn miễn dịch trước luật này; hoặc đóng kịch như thể không hề sống trong không gian ba chiều bình thường mà là một môi trường nào đó thiêu thiếu, cơ hồ chỉ… hai chiều rưỡi.
Tôi sinh trưởng ở Đà Lạt (Thành Phố Ngàn Hoa) nên sự hiểu biết về hoa lá cũng không đến nỗi tồi. Thế mà mãi tới bữa rồi, nhờ xem trang Trăm Hoa, mới được biết thêm về một loài hoa nữa – hoa ban: “Mùa hoa nở là lúc các cặp đôi nô nức đến thăm Tây Bắc. Hoa ban trắng tượng trưng cho tình yêu chung thủy và sự chân thành, dù tình yêu có gặp nhiều trắc trở, khó khăn thì cũng tự tin vượt qua và sẵn sàng đi đến bến bờ hạnh phúc. Các cặp đôi yêu nhau thường thề nguyện dưới gốc cây hoa ban như một minh chứng cho tình yêu thủy chung, bền chặt.”
Nhìn vào sự xuất hiện, sinh trưởng và tồn tại của chế độ cộng sản ở Việt Nam, chúng ta không thể phủ nhận đã có sự tương đồng với những thông tin tóm lược vừa nói về bệnh ung thư của con người...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.