Ngày 9 tháng 6 năm 2014, Tòa Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ đã quyết đinh bộ luật Child Status Protection Act không cho phép giữ ngày ưu tiên (retain priority date) của một số hồ sơ bảo lãnh gốc cho những hồ sơ bảo lãnh mới dành cho con trên 21 tuổi (F2B).
Ngày 6 tháng 8 năm 2002, Quốc Hội Mỹ ban hành bộ luật Child Status Protection Act (“CSPA”), cho phép những trẻ em quá 21 tuổi giữ lại tình trạng “Child” nếu hội đủ điều kiện khi visa được cứu xét. Tuy nhiên, CSPA chỉ áp dụng cho một số trẻ em nếu hội đủ điều kiện chứ không nhất thiết trẻ em nào cũng được sự bảo vệ của Bộ Luật này. Trong trường hợp con em bị “kẹt lại” Việt Nam trong bộ hồ sơ thứ nhất (F3 or F4), bố me di dân sang Hoa Kỳ, trở thành thường trú nhân và nộp đơn bảo lãnh cho con em còn kẹt lại (F2B). Vấn đề đặt ra là khi nộp hồ sơ thứ hai, người bảo lãnh có thể giữ lại ngày ưu tiên của bộ hồ sơ thứ nhất hay không?
Ví dụ: Tháng 10/2000, Quang được Chị (là công dân Mỹ) bảo lãnh sang Mỹ (F4). Lúc đó Chi (con gái của Quang) 10 tuổi nên hộp lệ được “ăn theo”(derivative child), Tuy nhiên, năm 2012 khi visa được cứu xét (12 năm sau), bé Chi đã 22 tuổi và không còn được hợp lệ “ăn theo” nữa (mặc dù đã tính tuổi theo luật CSPA). Quang di dân định cư sang Mỹ và trở thành thường trú nhân. Tháng 5 năm 2013, Quang nộp đơn bảo lãnh cho Chi (F2B). Cơ quan USCIS chấp nhận hồ sơ nhưng cho Quang ngày ưu tiên là 05/2013. Luật sư của Quang lý luận rằng, Quang nên được giữ lại ngày ưu tiên gốc là ngày 10/2000 khi chị của Quang nộp đơn bảo lãnh. Tòa Ánh khu vựa số 9 cho phép hồ sơ bảo lãnh thứ hai giữ lại ngày ưu tiên của hộ sơ bảo lãnh số 1 (10/2000) nếu thường trú nhân sau khi di dân sang Hoa Kỳ bảo lãnh lại con trên 21 tuổi (F2B). Tuy nhiên, ngày 9 tháng 6 năm 2014, Tòa tối cao pháp viện Hoa Kỳ đã reverse quyết định này.
Với quyết định này của US Supreme Court, chỉ có những người được bảo lãnh của hồ sơ F2A (thường trú nhân bảo lãnh con dưới 21 tuổi còn độc thân) hoặc F2B (thường trú nhân bảo lãnh con 21 tuổi trở lên còn độc thân) mới được giữ lại ngày ưu tiên (retain priority date) nếu người bảo lãnh (Petitioner) cho cả hai bộ hồ sơ là một (same Petitioner).
Ví dụ: Hồ sơ #1: Ngày 1/1/2011, Alice là thường trú nhân. Alice bảo lãnh chồng Barney (F2A). Barney có đứa con riêng là Charlie. Lúc nộp đơn, Charlie dưới 21 tuổi nên được list là “derivative child”. Tuy nhiên, khi visa được cứu xét, Charlie đã 23 tuổi. Barney di dân sang Mỹ một mình, và trở thành thường trú nhân.
Tình huống 1: Ngày 05/01/2014, Barney bảo lãnh Charlie (F2B): hồ sơ #2 này không thể giữ ngày ưu tiên của hồ sô 1 vì người bảo lãnh của hồ sơ #1 (Alice) và người bảo lãnh của hồ sơ #2 là hai người khác nhau (different petitioners).
Tình huống 2: Ngày 05/01/2014, Alice bảo lãnh Charlie (F2B): hồ sơ #2 này có thể giữ ngày ưu tiên cùa hồ sơ #1 (ngày 1/1/2011) vì người bảo lãnh của cả hai hồ sơ đều là Alice (same petitioner filing for the same beneficiary).
Ví dụ 2: David là công dân Mỹ. David bảo lãnh cho Eric (F4) (hồ sơ 1). Phương là con gái của Eric, 13 tuổi nên được list “ăn theo”. Khi xét visa, Phương đã 24 tuổi nên phải ở lại Việt Nam. Eric sang Mỹ, bảo lãnh cho Phương (F2B) (hồ sơ 2). Eric không thể giữ ngày ưu tiên của hồ sơ 1 vì người bảo lãnh của hồ sơ 1 (David) và hồ sơ 2 (Eric) là hai người khác nhau.
Như vậy, việc tìm hiểu xem luật CSPA có áp dụng, và hồ sơ có được giữ ngày ưu tiên hay không khá phức tạp.
Bộ luật CSPA yêu cầu một quy trình gồm 3 giai đoạn. Trước hết phải xét xem Bộ luật CSPA có áp dụng trong hồ sơ bảo lãnh của quý vị hay không. Hai là, nếu Bộ luật CSPA áp dụng, bạn cần phải tính độ tuổi theo công thức của Bộ luật CSPA. Ba là, trong nhưng trường hợp “ăn theo” (preference), người được bảo lãnh phải chấn chỉnh tình trạng thẻ xanh của mình trong vòng một năm sau khi được xét visa. Trong những trường hơp người được bảo lãnh đang xin thẻ xanh và có mặt ở Mỹ, người được bảo lãnh phải nộp bộ đơn Form I-824 (Application for Action on an Approved Application or Petition) cho con cái ăn theo trong vòng một năm kể từ ngày loại visa đã trở nên available. Một điều cần lưu ý là Bộ luật CSPA không áp dụng cho người nộp đơn theo diện K-4 (con của fiancé).
Việc tính tuổi CSPA khá phức tạp. Trong những trường hợp Công dân Mỹ bảo lãnh con chưa lập gia đình dưới 21 tuổi, dộ tuổi này sẽ “freeze” lại từ ngày nộp đơn. Nều thường trú nhân bảo lãnh cho con dươi 21 tuổi chưa lập gia đình, nay bố/mẹ trở thanh công dân Mỹ trước khi con em trở thành 21 tuổi, tuổi CSPA của con em cũng sẽ “freeze” vào ngày bố mẹ trở thành công dân Mỹ. Bộ luật CSPA cho phép con em được bảo lãnh được quyền “opt-out” không automatic trở thành hồ sơ công dân Mỹ bảo lãnh con dưới 21 tuổi (F1), nhưng vẫn giữ tình trang F2A (ưu tiên 2-thường trú nhân bảo lãnh con dưới 21 tuổi) khi thời gian xét đơn ngắn hơn visa F1 (công dân Mỹ bảo lãnh con chưa lập gia đình). Muốn được “opt-out”, người đươc bảo lãnh phải việt đơn xin cho bộ Di Trú USCIS Dsitrict Office. (Muốn biết ngày visa available, quý vị có thể vào http://travel.state.gov/visa/bulletin/bulletin_1360.html.
Trong những trường hợp con cái ăn theo (ông bà, cô chú bảo lãnh), Bộ luật CSPA cho phép con cái được bảo lãnh tránh bị phạt do sở di trú xét hồ sơ quá lâu. Việc tính toán độ tuổi CSPA sẽ dựa trên công thức: [ Tuổi hiện tại – (ngày đơn bảo lãnh nộp và chấp nhận)] = CSPA Age.
Với bản chất phức tạp và luôn thay đổi của luật lệ di trú, việc nộp đơn bảo lãnh không chỉ đơn giản chỉ là việc “điền đơn”. Ngoài việc mong muốn bảo lãnh cho con em, bạn nên tìm hiểu xem con em mình có thể bị “age-out” và hợp lệ để “chỉnh” lại tuổi dưới bô luật Child Status Protection Act.
Disclaimer: bài viết này chỉ cung cấp thông tin chung và không nhằm tư vấn cho một cá nhân nào. Mọi thắc mắc xin liên lạc luật sư Nguyễn Lê Thiên Trang tại (713)789-8010 hoặc email: Info@PhamNguyenLaw.com
Gửi ý kiến của bạn