Hôm nay,  

Lúa Đơm Bông Trên Miền Đất Hứa

4/17/201000:00:00(View: 7436)

Lúa Đơm Bông Trên Miền Đất Hứa

Trường trung học tư nổi tiếng nhất Montreal.

Nguyễn Thượng Chánh, DVM
Khi bỏ nước ra đi tìm tự do, tất cả bậc cha mẹ Việt Nam đều nghĩ đến tương lai của các đứa con mình...
Tại Canada, người ta thường cho rằng những học sinh di dân nào nói tiếng mẹ đẻ khác hơn là hai ngôn ngữ Pháp hoặc Anh thì sẽ gặp nhiều khó khăn để có được mãnh bằng trung học (High School), một chìa khóa mở ngõ vào bậc cao đẳng và đại học.
Lý do được đưa ra là bối cảnh kinh tế xã hội không thuận lợi cho các con em di dân trong đường học vấn.
Canada là quốc gia sử dụng hai sinh ngữ chánh, đó là Pháp ngữ tại tỉnh bang Québec và Anh ngữ tại những tỉnh bang khác.
Dân bản xứ da trắng được gọi là dân francophone nếu nói tiếng Pháp và  anglophone nếu họ nói tiếng Anh. Còn tất cả di dân mà tiếng mẹ đẻ không phải là Pháp hoặc Anh thì được xếp vào nhóm dân allophone.
Ngày nay, nhiều nhà nghiên cứu về giáo dục và di dân đã đưa ra nhiều bằng chứng cho thấy mặc dù có trở ngại, khó khăn buổi đầu nhưng dần dần sau đó nhóm học sinh di dân đều bắt kịp học sinh bản xứ và trong nhiều trường hợp họ còn vượt trội hơn nhóm đa số đa trắng.
Trường hợp nầy không áp dụng cho những con em Việt Nam đã bắt đầu đi học từ những lớp mẩu giáo như tất cả các trẻ em bản xứ.
Theo họ, ý  niệm “học sinh allophone” hay “học sinh xuất thân từ lớp di dân”( élèves issus de l’immigration)  cần phải được xét lại.
Giáo sư Marie McAndrew thuộc đại học Montreal, là một nhà chuyên môn về vấn đề giáo dục liên hệ đến các lớp di dân tại Canada. Vài năm trước dây Gs McAndrew đã thực hiện một cuộc nghiên cứu thăm dò rộng lớn tại Montréal, Toronto và Vancouver về đề tài: Giáo dục và mối tương quan giữa các sắc dân (L’éducation et les rapports ethniques)
Cuộc thăm dò nhắm vào các học sinh trung học thuộc 7 nhóm ngôn ngữ groupes linguistiques khác nhau so với nhóm ngôn ngữ của đa số,tiếng Anh và tiếng Pháp.
Marie McAndrew est professeure titulaire au Département d’administration et fondements de l’éducation de l’Université de Montréal. Titulaire d’un doctorat en éducation comparée et en fondements de l’éducation, elle est spécialisée dans l’éducation des minorités et l’éducation interculturelle. Sa contribution dans ce domaine est significative, tant en ce qui concerne la recherche que le développement et l’évaluation des politiques. De 1989 à 1991, comme conseillère au Bureau des sous-ministres du Ministère des Communautés culturelles et de l’Immigration du Québec, elle a été étroitement associée à l’élaboration et à la dissémination de l’Énoncé de politique en matière d’immigration et d’intégration Au Québec pour bâtir ensemble.
Có lối 54 000 em học sinh trung học được phỏng vấn và các dữ kiện thu lượm được phân tách căn cứ trên 7 biến số variables liên hệ đến hoàn cảnh xã hội, kinh tế gia đình, và 4 biến số dựa trên đặc tính của trường mà các em đang theo học.
Nét văn hóa gia đình đóng một vai trò quan trọng trong sự thành đạt trong học vấn.
Nếu xét chung, thì học sinh di dân gốc allophone ở Montreal, Toronto và Vancouver có tỉ số đổ đạt trung học cũng không mấy khác biệt gì với nhóm học sinh thuộc đa số nói tiếng Anh anglophone  hay tiếng Pháp francophone .
Tại Montreal, số học sinh di dân nhóm allophone « không nói tiếng Pháp »  ít hơn so với nhóm học sinh bản xứ nói tiếng Pháp francophone.
 Sau 5 năm trung học (études secondaires) thì 45% học sinh  nhóm thiểu số allophone so với 52% nhóm đa số francophone  đổ được văn bằng trung học. Nhưng sau 7 năm học thì nhóm thiểu số bắt gần kịp nhóm đa số. Thiểu số 59.5% và 61.6% cho nhóm đa số. Đây là một sự sai biệt nhỏ nhoi không mấy có ý nghĩa...
Trong nhóm allophone với nhau, nếu căn cứ đơn thuần về nguồn gốc ngôn ngữ mà thôi thì học sinh Việt Nam nổi bật nhất với 82% có bằng Trung học, các em người Hoa chiếm  78%, các học sinh khối Á Rạp,Bắc Phi 67% (Magreb, Liban), các em Iran 65%, các học sinh nói tiếng espagnol (Châu Mỹ Latin) 52%, học sinh da đen nhóm nói tiếng créole (Haiti) 40% và so với nhóm chủ nhà Québécois francophone  nói tiếng Pháp lối 62%  có bằng Trung học.
 Xin nói thêm là từ khoảng 20 năm nay, người Hoa di dân ồ ạt qua Canada. Họ đến từ lục địa Trung Quốc, Hong Kong, Đài Loan. Di dân hợp pháp (đoàn tụ, hoặc đầu tư…) và di dân lậu, chui, lấy vợ lấy chồng có quốc tịch Canada… Năm 1981 có 300 000 người Hoa sống tại Canada. Đến năm 2001, con số trên tăng lên 1 029 400 người tương đương 3,5%dân số Canada.


Tina Chui,Kelly Tran, John Flanders. Les Chinois au Canada: Un enrichissement de la mosaique culturelle.
http://www.statcan.gc.ca/pub/11-008-x/2004004/article/7778-fra.pdf
Tại Toronto và Vancouver, các em học sinh gốc Hoa có kết quả học vấn cao hơn các nhóm đa số da trắng nói tiếng Anh anglophone. Số các em học sinh gốc Hoa có bằng trung học nhiều gấp 2 hoặc 3 lần hơn so với các em học sinh da trắng anglophone.
Yếu tố «tồn căn» (effet résiduel)
Sau khi loại bỏ hết các biến số (tuổi tác, nam, nữ, hoàng cảnh xã hội,kinh tế gia đình, nơi sanh, bắt đầu vào học lớp mấy…) Gs Mc Andrew cho biết còn có ảnh hưởng của yếu tố « tồn căn » đã dự phần vào sự thành đạt học vấn của một nhóm sắc dân nào đó.
Các học sinh người Hoa có tỉ số thành công gấp 4 lần nhiều hơn so với dân da trắng nói tiếng Anh tại Toronto.
Tại Montreal, số học sinh Việt Nam  thành công trong học đường nhiều gấp 3 lần so với  học sinh Québecois chủ nhà nói tiếng Pháp.
Tội nhất là dân nói tiếng créole (créolophone) tức là học sinh da đen gốc Haiti có 4 lần ít cơ may đổ đạt được mảnh bằng Trung Học.
Vốn văn hóa (capital culturel)
Theo Gs Marie McAndrew, ảnh hưởng của yếu tố tồn căn có thể có liên hệ với hai yếu tố khác, đó là:
-          Ảnh hưởng của vốn văn hóa gia đình, tức là sức học (giáo dục) của cha mẹ, tâm lý coi trọng sự thành đạt học vấn, và mối liên hệ giữa gia đình với nhà trường cũng như giữa cộng đồng và học đường.
 Nhưng kết quả có được cũng có thể một phần nhờ vào cơ cấu tổ chức rất có hệ thống của nhà trường, nhân viên giáo dục biết cách thích ứng, hành xử thích hợp tùy theo nếp văn hóa riêng và tùy theo sanh quán của học sinh.
Gs McAndrew cho biết là bà ta không thể xác định được trong số các yếu tố kể trên, cái nào đã dự phần thật sự trong sự sản sinh ra yếu tố tồn căn.
Giả thuyết về vốn văn hóa trở nên quan trọng hơn khi chúng ta không những chỉ thấy rằng các em học sinh gốc Hoa và gốc Việt có tỉ lệ đổ đạt cao mà trong thời gian theo học trung học, các em thường có khuynh hướng lựa chọn những môn học nào có thể giúp các em mở được nhiều cửa ngõ cho những ngành nghề thích hợp trong tương lai lúc theo học các trường Cao đẳng (CEGEP ở Québec) và Đại học.
Một yếu tố nữa đã minh chứng cho giả thuyết vốn văn hóa. Đó là lợi tức thu nhập của gia đình (revenu familial) cho thấy không chủ yếu để quyết định vào sự thành công hay thất bại trong học vấn của các con em học sinh di dân  allophone (tiếng mẹ đẻ không phải là Anh hoặc Pháp).
Ngược lại, lợi tức gia đình là một chỉ điểm indicateur không thể thiếu được để quyết định sự thành bại của nhóm học sinh bản xứ francophone hoặc anglophone.
Theo Gs Marie McAndrew, kết quả cho thấy có một khoảng cách quan trọng giữa hoàn cảnh kinh tế xã hội của lớp học sinh di dân trong quốc gia tiếp nhận và vốn văn hóa cũng như sức học thật sự của các em.
 Autre facteur à l'appui de cette hypothèse: le revenu familial s'avère non significatif pour expliquer la réussite ou l'échec scolaire des élèves allophones, alors que cet indicateur demeure pertinent pour le groupe d'accueil. «Les résultats montrent un important hiatus entre le statut socioéconomique de ces élèves dans le pays d'accueil et leur capital culturel et scolaire réel».
Kết Luận
Sự thành đạt của con em chúng ta trong học vấn được xem như là sự thành công và niềm hảnh diện chung của cha mẹ Viêt Nam trên miền đất hứa./.
Tham Khảo :
- Daniel Baril, UdeMNouvelles. La culture joue un grand rôle dans la réussite scolaire
http://www.nouvelles.umontreal.ca/recherche/sciences-de-leducation/le-capital-culturel-familial-est-plus-determinant-que-le-revenu.html
- Hieu Van Ngo, Barbara Schleifer. Immigrant children and youth in focus
http://canada.metropolis.net/pdfs/Van_ngo_e.pdf
-  Nguyễn Thượng Chánh.Khoahoc.net. Ngưòi Việt Montreal
http://www.khoahoc.net/baivo/nguyenthuongchanh/051109-sachnguoivietmontreal.htm
-    Lâm Văn Bé. Diện mạo người Việt tại Canada năm 2006
http://www.khoahoc.net/baivo/lamvanbe/010410-nguoiviettaicanada.htm
-  Trần Giao Thủy. Saigon Echo. Người Việt ở Mỹ- Vẻ vang dân Việt"
http://saigonecho.com/main/cdviettynan/xaydungcdviet/13373-ngi-vit-m-v-vang-dan-vit.html

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Trước những nghi ngại “Hoa Kỳ có còn là đồng minh đáng tin cậy hay không?” thì chúng ta có thể khẳng định rằng Mỹ hay bất kỳ quốc gia nào trong khối tự do đều vẫn là những người bạn đồng hành tốt trong hành trình đi tìm tự do và canh tân đất nước, miễn là chúng ta không quên những bài học đã nêu để phát huy tiềm năng của chính mình, bảo vệ quyền lợi quốc gia, và đạt tới mục tiêu tự do, ấm no, hạnh phúc cho dân tộc.
Bằng chứng: ”Sự bùng phát mạnh của làn sóng Covid-19 lần thứ tư cùng với các đợt giãn cách liên tiếp khiến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (DN) bị ảnh hưởng nặng nề, đặc biệt là các địa phương phía Nam. Theo Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường trong 8/2021 là 85,5 nghìn doanh nghiệp, tăng 24,2% so với cùng kỳ năm 2020.
Mặc dù rõ ràng là Hoa Kỳ có thể điều hành công việc ra khỏi Afghanistan tốt đẹp hơn, nhưng thảm kịch xảy ra vào tháng này đã kéo dài trong 20 năm. Ngay từ đầu, Mỹ và các đồng minh đã chấp nhận - và không bao giờ xem lại - một chiến lược xây dựng nhà nước từ trên xuống dưới luôn được xem là thất bại như do định mệnh đã an bài. Hoa Kỳ đã xâm chiếm Afghanistan 20 năm trước với hy vọng tái thiết đất nước, nay đã trở thành một tai họa cho thế giới và chính người dân của họ. Trước đợt tăng quân năm 2009, Tướng Stanley McChrystal giải thích, mục tiêu là “chính phủ Afghanistan kiểm soát toàn vẹn lãnh thổ để hỗ trợ ổn định khu vực và ngăn chặn việc sử dụng này cho chủ nghĩa khủng bố quốc tế.“ Hiện nay, với việc thiệt mạng hơn 100.000 và thất thoát khoảng 2 nghìn tỷ đô la, tất cả nước Mỹ phải thể hiện cho nỗ lực của mình là cảnh của một cuộc tranh giành tuyệt vọng để chạy ra khỏi đất nước trong tháng này - một sự sụp đổ nhục nhã gợi nhớ đến sự sụp đổ của Sài Gòn năm 1975. Điều sai lầ
Gặp gỡ và nói chuyện nhiều với những người thông dịch viên Afghanistan, tôi mới hiểu thêm rất nhiều về dân tộc họ và biết rằng chính phủ Afghanistan là một chính phủ tham nhũng lan tràn từ cấp thấp cho đến cấp cao, mức độ nào họ cũng có thể ăn hối lộ được, chỉ có người dân thấp cổ bé miệng là khổ. Người Mỹ biết rất rõ nhưng vẫn không làm gì hết. Bản thân chúng tôi khi ra vào đất nước này, cũng phải đóng cho những nhân viên hải quan đủ thứ tiền, mà phải bằng tiền đô la Mỹ, mệnh giá 100 đồng mới tinh, cũ hoặc dính 1 vết mực, họ không nhận và không chịu ký giấy và đóng mộc. Nói để thấy rằng chúng ta, người Mỹ, hy sinh tiền bạc, xương máu cho họ, thật không đáng chút nào. Rút ra khỏi đất nước này là đúng và là một việc phải làm ngay.
Cứ tới cuối tuần, dân Tây réo nhau xuống đường biểu tình chống chương trình chích ngừa dịch vũ hán và, tiếp theo, chống biện pháp kiểm soát có chích hay không bằng «thông hành y tế» (pass-sanitaire), tờ giấy có dấu hiệu đã chích ngừa của Cơ quan Bảo hiểm sức khỏe cấp qua Cơ quan tổ chức chích hoặc y sĩ gia đình hay dược sĩ.
Đầu năm 70, bạn đồng minh Huê kỳ quyết định bỏ rơi VNCH, không thực hiện cam kết rút quân, Việt-nam hóa chiến tranh, mặc nhiên giao Miền nam cho Hà nội. Ngày 30/04/75, quân Bắt Việt tiến vào Sài gòn, ngỡ ngàng. Dân chúng hoảng loạn bỏ chạy. Nhưng 14 năm sau thất bại nhục nhã ở Việt nam, bức tường Bá-linh bổng sụp đổ, kéo theo cộng sản Liên xô xuống hố, giúp Huê kỳ kết thúc cuộc chiến tranh lạnh làm kẻ chiến thắng.
Người Mỹ nói “Nothing is certain but tax and death” (Không ai tránh khỏi thuế và chết). Thuế mang ý nghĩa đặc biệt vì lịch sử nước Mỹ được thành hình từ ngày dân chúng thuộc địa nổi loạn chống nhà nước bảo hộ Anh Hoàng với khẩu hiệu bất hủ “Taxation without representation is tyranny” (Bị đánh thuế mà không được có đại biểu là bạo quyền.) Cho nên mỗi kỳ bầu cử đều tranh luận gay gắt về thuế má – nhưng không chỉ là cải cọ vô bổ vì khi thành luật sẽ theo đó móc từ túi tiền của mỗi người dân nhiều hay ít.
Đảng cộng sản VN cũng “khởi nghiệp” với những tuyên ngôn và khẩu hiệu nghe (tử tế) tương tự. Họ hô hào chống lại áp bức, bất công, kỳ thị … Nhờ vậy, họ vận động được quần chúng - kể cả những thành phần thiểu số, “ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng” - nổi dậy “giành lấy chính quyền về tay nhân dân.” Chả phải vô cớ mà Cách Mạng Tháng Tám vẫn được mệnh danh là “Cuộc Khởi Nghĩa Của Những Người Tay Không.” Chỉ có điều đáng phàn nàn là sau khi “những người tay không” nắm được quyền bính trong tay thì họ (tức khắc) hành xử như một đám côn đồ, đối với tất cả mọi thành phần dân tộc
Người lính Mỹ, trong nhân dáng hiên ngang, với những bước chân chắc nịch, đôi mắt nhìn thẳng và kỹ thuật tác chiến tuyệt vời. Nhưng người lính Mỹ cũng có trái tim biết rung động, biết nhớ thương, biết đau khổ như bạn và tôi. Xin đừng “thần thánh hóa” hoặc đòi hỏi những điều mà người lính Mỹ không thể thực hiện được; vì người lính Mỹ còn phải chu toàn bổ phận đối với người hôn phối, gia đình và người thân. Xin hãy nghĩ đến những trái tim tan vỡ trong mỗi gia đình, khi một người lính Mỹ gục ngã!
Như vậy, tuy không công khai, nhưng Bà Harris có quan tâm đến nhân quyền, các quyền tự do và vai trò của các tổ chức Xã hội Dân sự ở Việt Nam, một việc mà đảng và nhà nước CSVN luôn luôn chống đối và đàn áp. Tuy nhiên, tất cả báo Việt Nam, kể cả những báo “ôn hòa” như Thanh Niên, Tuổi Trẻ, Lao Động và Người Lao Động đều không đăng lời tuyên bố chống Trung Hoa của Bà Phó Tổng thống Harris.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.