Hôm nay,  

Á Châu Bật Dậy

05/11/200900:00:00(Xem: 9643)

Á Châu Bật Dậy

Nguyễn Xuân Nghĩa & Thanh Quang RFA

...dân nghèo tại Việt Nam... đã nghèo nay lại còn khổ hơn...

Sau báo cáo được Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF công bố hôm Thứ Năm 29 tuần trước, sáng Thứ Tư mùng bốn, giờ Hà Nội, Ngân hàng Thế giới cũng phổ biến bản cập nhật về kinh tế Á châu Thái bình dương. Cả hai định chế tài chính quốc tế đều nói đến sự bật dậy đáng mừng của các nền kinh tế Á châu. Tuy nhiên, bên dưới trào lưu chung đó là nhiều khác biệt của từng nước và hai câu hỏi chung là liệu sự phục hồi ấy có bền vững không, và các nước châu Á cần cải tổ thế nào để có thể tránh một vụ suy thoái tương tự" Diễn đàn Kinh tế đài RFA sẽ tìm hiểu các vấn đề ấy qua cuộc trao đổi do Thanh Quang thực hiện sau đây với nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa.
Thanh Quang: Xin kính chào chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa. Trong một tuần, hai định chế tài chính toàn cầu là Quỹ Tiền tệ Quốc tế rồi Ngân hàng Thế giới cùng đưa ra lượng định của họ về kinh tế Á châu với những dự đoán lạc quan hơn cho tình hình năm tới. Tuy nhiên, bên sau bức tranh toàn cảnh ấy là nhiều khác biệt trong từng quốc gia. Diễn đàn Kinh tế của chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về những khác biệt này, với mối quan tâm đặc biệt về trường hợp Việt Nam, Xin ông trước hết trình bày cho bối cảnh của đề tài tuần này.
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Nói về bối cảnh thì Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF vẫn nghiên cứu triển vọng kinh tế toàn cầu và trong từng khu vực. Đầu tháng 10, báo cáo về kinh tế toàn cầu đã được họ công bố, tới cuối tháng thì có báo cáo riêng về kinh tế Á châu, bao gồm một khu vực rộng lớn và có rất nhiều khác biệt. Ngân hàng Thế giới cũng khảo sát định kỳ và mỗi sáu tháng lại cập nhật tình hình các nước và sáng Thứ Tư, giờ Á châu thì công bố kết quả khảo sát tại các nước châu Á Thái bình dương, tức là các nước Đông Á, nghĩa là không có Ấn Độ.
- Chi tiết thứ hai về bối cảnh là định nghĩa để ta biết là đang nói về đối tượng nào được khảo sát khi nói về một khu vực địa dư là Á châu. Nói chung, hai định chế này xếp loại các nền kinh tế trong khu vực theo trình độ phát triển, chủ yếu là đo lường ở lợi tức hay sức mạnh sản xuất.
Thanh Quang: Thế thưa ông, họ xếp loại như thế nào và vị trí Việt Nam nằm ở đâu"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Trong khối Á châu, IMF nói tới "Á châu công nghiệp hoá" gồm ba nước Nhật, Úc và New Zealand và "Á châu đang phát triển" hay "đang lên", gồm Ấn Độ, Trung Quốc, Hong Kong, Nam Hàn, Đài Loan, Singapore, Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam. Trong khối đang lên ấy, họ còn phân biệt bốn xứ gọi là "tân hưng" gồm có Hong Kong, Nam Hàn, Đài Loan và Singapore với các nước còn lại, có lợi tức thấp hơn, kể cả Việt Nam.
- Phần mình, Ngân hàng Thế giới tập trung vào khối Đông Á và Thái bình dương với đôi chút khác biệt về định nghĩa. Họ xếp vào loại "Đông Á đang lên" hai nhóm quốc gia. Nhóm "đang phát triển" gồm có Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan, Cam Bốt, Lào, Mông Cổ, Việt Nam và một số các nền kinh tế nhỏ ở các hải đảo. Nhóm thứ hai là các nước "tân hưng" gồm có Hong Kong, Nam Hàn, Đài Loan, Singapore và lại có cả Trung Quốc, là điều hơi mơ hồ. Ngân hàng Thế giới còn phân biệt nhóm quốc gia có lợi tức trung bình với các nước có lợi tức thấp. Lợi tức trung bình là các nước như Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái. Còn lợi tức thấp là ba nước trên bán đảo Đông Dương là Việt Nam, Lào và Cam Bốt. Qua cách xếp loại ấy, Ngân hàng Thế giới đưa Trung Quốc vào loại "đang phát triển" mà cũng là "tân hưng" nhưng lại có lợi tức trung bình, là ba khái niệm hơi khác nhau. Theo thiển ý thì việc ấy phản ảnh sự phân vân của định chế tài trợ này mỗi khi đề cập tới Trung Quốc. Riêng về Việt Nam thì đứng hàng rất thấp về lợi tức trong cách xếp loại của cả hai định chế này.
Thanh Quang: Xin cám ơn ông về cách trình bày những định nghĩa trên vì làm nổi rõ sự khác biệt về trình độ giữa các quốc gia ở trong cùng một khu vực Á châu. Bước qua nội dung thì ông thấy thế nào về Á châu qua sự lượng định của hai tổ chức quốc tế này"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Đầu tiên và cũng về bối cảnh, ta không quên là mấy năm trước, giới kinh tế lạc quan nói đến khả năng riêng của khối Đông Á đang lên là có thể tách rời khỏi các nước đã công nghiệp hóa, gọi chung là nhóm G-7. Nghĩa là khối Đông Á có sức mạnh nội tại và không còn bị lệ thuộc vào các quốc gia Âu-Mỹ hay Nhật. Chuyện ấy không xảy ra. Đông Á vẫn bị hậu quả tai hại khi kinh tế Hoa Kỳ bị suy trầm từ cuối năm 2007 rồi khủng hoảng tài chính tại Mỹ đã bùng nổ vào tháng Chín năm ngoái và lan thành suy thoái cho cả khối G-7 rồi gây ra chấn động toàn cầu. Bối cảnh chung là thế giới bị khủng hoảng tài chính nặng nhất kể từ vụ Tổng khủng hoảng thời 1930 và kinh tế Mỹ bị trận suy thoái trầm trọng nhất kể từ năm 1982, và lâu nhất kể từ năm 1854 vì bình quân từ 155 năm nay thì kinh tế chỉ đình trệ 17 tháng là hết.
- Thế rồi, sau khi bị hiệu ứng tai hại xuất phát từ các đầu máy kinh tế mạnh nhất là Hoa Kỳ, Âu Châu và Nhật Bản, các nền kinh tế Đông Á nói chung đã bật dậy rất lẹ và tương đối thì mạnh nhất trong các khối kinh tế trên thế giới. Đấy là nhận định của hai tổ chức tài chính nói trên.
Thanh Quang: Những nguyên nhân nào khiến cho khối kinh tế Đông Á này đã đụng đáy và bật dậy mau lẹ như vậy"


Nguyễn Xuân Nghĩa: - Một nguyên nhân chính được báo cáo của IMFnhắc tới là kinh nghiệm của vụ khủng hoảng kinh tế Đông Á năm 1997-1998 khiến các nước trong khu vực đều cố tạo dựng quân bình vĩ mô của nền kinh tế. Đó là tránh bội chi ngân sách quá cao, có hệ thống tài chính ngân hàng lành mạnh hơn và lập một khối dự trữ ngoại tệ dồi dào, hầu có phương tiện kích thích kinh tế khi bị suy thoái. Nhờ điều kiện ấy, các nước đều có thể lập tức tung ra biện pháp kích cầu ào ạt, như tăng chi, giảm thuế, cắt lãi suất, bơm tín dụng, v.v... nên phần nào nâng cao được số cầu của thị trường nội địa để bù đắp cho thất thâu trên thị trường quốc tế.
- Cũng cần nói thêm rằng hiệu ứng của nạn suy thoái do các đầu máy kinh tế lớn gây ra cho châu Á là nạn suy sụp thị trường xuất khẩu và sự khan hiếm tư bản và tín dụng, nhưng hậu quả về độ sút giảm sản xuất thật ra vẫn còn nhẹ hơn vụ khủng hoảng Đông Á mười năm về trước. Khi các nền kinh tế Âu Mỹ đã đụng đáy và đang hồi phục, dù còn yếu ớt, thì các nước xuất khẩu của Á châu đã bật dậy sớm nhất và mạnh nhất.
Thanh Quang: Ông nói là trong khối này thì các nước xuất khẩu đã bật dậy sớm nhất, tình hình các nước kia thì sao"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Đây là lúc mà mình thấy ra sự khác biệt trong cách xếp loại.
- Trên tổng thể thì cả khối Á châu đã bậy dậy và Quỹ Tiền tệ Quốc tế dự báo tốc độ tăng trưởng bình quân cho cả khối là 5,75% vào năm tới. Nhưng, con số bình quân này che giấu một thực tế không lạc quan nếu ta không gộp chung trường hợp của Trung Quốc, Ấn Độ và Nam Hàn. Thiếu tốc độ tăng trưởng khả quan hơn của ba nước đó, tình hình Á châu còn lại thật ra vẫn đen tối.
- Riêng Ngân hàng Thế giới thì đánh giá cao thành tích kích cầu và ảnh hưởng của Trug Quốc đối với các nước Đông Á vì trở thành thị trường xuất khẩu cho các nước này. Tuy nhiên, Trung Quốc chủ yếu nhập vào nguyên vật liệu hay thương phẩm, là sở trường của một số nước nghèo trong vùng, chứ không mua các sản phẩm chế biến. Báo cáo của định chế này cũng lượng định rằng nếu không kể thêm Trung Quốc thì tình hình Đông Á vẫn chưa sáng sủa.
Thanh Quang: Nếu như vậy thì phải chăng bức tranh toàn cảnh chưa thể là màu hồng như người ta có thể lầm tưởng"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thưa đúng vậy và trong khi phúc trình của Quỹ Tiền tệ Quốc tế cảnh báo các nước là phải theo dõi và duy trì các biện pháp kích cầu nếu thấy cần thiết thì Ngân hàng Thế giới cho là trong khu vực Đông Á, thì ngoài Trung Quốc và Nam Hàn ra, các nước kia vẫn chưa ra khỏi khó khẳn, kể cả trường hợp của Indonesia và Việt Nam là hai nước có đà tăng trưởng cao hơn các lân bang. Đây mới là điểm đáng chú ý nhất của hai báo cáo này. Nôm na là tình hình còn bấp bênh và khu vực này khó duy trì được một đà tăng trưởng khả quan và bền vững nếu không tiến hành một số chương trình cải cách. Ngân hàng Thế giới đặc biệt chú ý đến thành phần nghèo khổ của các quốc gia trong loại có lợi tức thấp, kể cả Việt Nam.
Thanh Quang: Ông vừa nói tới khuyến cáo của hai tổ chức này về yêu cầu tiến hành cải cách để có thể duy trì một tốc độ tăng trưởng khả quan trong lâu dài. Việc cải cách ấy gồm có những gì"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Vì các đầu máy kinh tế của khối G-7 còn yếu với đà tăng trưởng bình quân năm tới chỉ ở khoảng 1,25%, và tiêu thụ tư nhân sẽ còn thấp, các nước Á châu sẽ phải tìm ra lực đẩy ở nơi khác. Chủ yếu là ở thị trường nội địa. Hoàn cảnh ấy khiến Á châu phải quan niệm lại cái thế quân bình của kinh tế toàn cầu, đó là các nước công nghiệp hóa sẽ tiêu thụ ít đi và phải tiết kiệm nhiều hơn. Ngược lại, các nước đang lên của Á châu phải tiêu thụ nhiều hơn thay vì chỉ nghĩ tới việc thắt lưng buộc bụng để xuất khẩu qua các thị trường Âu-Mỹ-Nhật. Lồng trong chiều hướng cải cách ấy trong lâu dài, các nước Á châu phải cân nhắc kỹ nhu cầu tiếp tục kích thích kinh tế, với một đòi hỏi trái ngược là đừng thổi bùng lạm phát và gây thêm bội chi ngân sách.
- Riêng Ngân hàng Thế giới thì nêu ra một số khuyến cáo cụ thể. Thứ nhất là mở rộng thị trường nội địa nhưng cũng nâng cao năng suất nhờ những ngành có giá trị đóng góp cao hơn, thay vì chỉ nghĩ tới xuất khẩu và cứ tập trung sản xuất loại hàng hóa có giá trị tich lũy thấp, như nguyên nhiên vật liệu hay khoáng sản. Thứ hai phải chú ý tới khu vực dịch vụ, khai thông những ách tắc trong hạ tầng cơ sở để giải quyết yêu cầu chuyển vận và phân phối trong nước. Thứ ba, cải tổ giáo dục và đào tạo để nâng cao năng suất và có một chính sách an sinh xã hội khả quan hơn hầu người dân bớt lo sợ bất trắc mà dám tiêu xài mạnh hơn, và tiết kiệm ít đi...
Thanh Quang: Riêng về trường hợp của Việt Nam thì sao" Hai định chế này nhận định thế nào"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Việt Nam đã ráo riết kích thích kinh tế với ngân khoản thực tế còn lớn hơn con số chính thức được công bố. Nhưng kết quả lại chưa sánh được với công sức vì yếu kém trong cơ chế. Việt Nam lại bị bội chi ngân sách quá cao, tới hơn 9% tổng sản lượng nội địa GDP, cho nên cần thận trọng khi tăng chi để kích cầu. Việc mở vòi tín dụng để kích cầu lại có thể gây thêm rủi ro cho hệ thống ngân hàng và còn thổi lên bong bóng đầu tư và nguy cơ lạm phát. Trong khi ấy, dự trữ ngoại tệ của Việt Nam lại sút giảm vì nhập siêu quá cao, đầu tư trực tiếp và tiền trợ giúp của thân nhân đều sụt, nên xứ này sẽ bị áp suất nặng về ngoại hối. Ngân hàng Thế giới còn ước lượng là tính đến tháng Tám vừa rồi, dự trữ ngoại tệ của Việt Nam chỉ còn có 16 tỷ rưỡi, và là vấn đề đáng quan tâm. Ngoài ra, Việt Nam cũng phải cải cách theo chiều hướng đã được nêu chung cho các nước.
- Nguy kịch nhất chính là số phận dân nghèo tại Việt Nam, một thành phần đáng kể và đã nghèo nay lại còn khổ hơn, trong khi ngân sách nhà nước bị thiếu hụt nên không thể mở rộng mạng lưới an sinh cứu giúp thành phần này. Nói chung thì tình hình Việt Nam vẫn còn rất đáng lo.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi nghe nhiều người tỏ ý bi quan về hiện cảnh cũng như tương lai (đen tối) của Việt Nam. Dân tộc nào, số phận đó. Một đất nước có những người viết sử và làm luật (cỡ) như ông Dương Trung Quốc thì… đen là phải!
Việt Nam bước vào năm Giáp Thìn 2024 với gánh nặng tham nhũng và một đội ngũ “không nhỏ” cán bộ, đảng viên suy thoái đạo đức lối sống. Đó là cảnh báo của người đứng đầu đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng, trong cuộc phỏng vấn đầu năm của Thông Tấn Xã Việt Nam...
Từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Triết gia Mạnh Tử (372-289 BC) của Trung Hoa đã nói rằng, “Dân là quý, thứ đến đất nước, rồi tới vua.” Điều đáng nói là Mạnh Tử là người đi theo học thuyết của Nho Gia vốn chủ trương vua là con ông Trời (Thiên tử) được sai xuống nhân gian để trị quốc an dân, vậy mà cũng không thể phủ nhận vai trò quan trọng, nếu không muốn nói là tối quan trọng của người dân. Thời hiện đại, công pháp quốc tế đã nêu ba yếu tố chính hình thành một quốc gia: người dân, lãnh thổ và chính quyền. Trong đó, thật ra người dân chính là yếu tố then chốt quyết định. Lãnh thổ nếu không có dân ở, không có người quản trị thì không phải là đất nước của một dân tộc. Chính quyền từ người dân mà ra, bởi vì trước khi một người ra nắm quyền cai trị đất nước thì người đó phải là một người dân của đất nước ấy. Hơn nữa, sự thịnh suy của một quốc gia nằm trong tay người dân.
“Phản động lực” mà người Đài Loan thể hiện trong cuộc bầu cử tổng thống vừa rồi khiến tôi, sau những suy nghĩ miên man về chuyện nước non, lại quay về với bài học yêu nước của thời tiểu học với câu hỏi khó, khiến nhiều học trò gác bút: “Em hãy tìm từ phản nghĩa với ‘tôn đại’.” Trung Quốc càng hung hăng đe dọa bao nhiêu, Đài Loan càng quật cường ngạo nghễ bấy nhiêu. Mà nếu Bắc Kinh ngu ngơ hay vờ vịt không biết gì đến định luật này thì, thầy nào tớ đó, Hà Nội cũng mù tịt hay giả bộ tương tự. Họặc mù tịt như thể đã hoàn toàn miễn dịch trước luật này; hoặc đóng kịch như thể không hề sống trong không gian ba chiều bình thường mà là một môi trường nào đó thiêu thiếu, cơ hồ chỉ… hai chiều rưỡi.
Tôi sinh trưởng ở Đà Lạt (Thành Phố Ngàn Hoa) nên sự hiểu biết về hoa lá cũng không đến nỗi tồi. Thế mà mãi tới bữa rồi, nhờ xem trang Trăm Hoa, mới được biết thêm về một loài hoa nữa – hoa ban: “Mùa hoa nở là lúc các cặp đôi nô nức đến thăm Tây Bắc. Hoa ban trắng tượng trưng cho tình yêu chung thủy và sự chân thành, dù tình yêu có gặp nhiều trắc trở, khó khăn thì cũng tự tin vượt qua và sẵn sàng đi đến bến bờ hạnh phúc. Các cặp đôi yêu nhau thường thề nguyện dưới gốc cây hoa ban như một minh chứng cho tình yêu thủy chung, bền chặt.”
Nhìn vào sự xuất hiện, sinh trưởng và tồn tại của chế độ cộng sản ở Việt Nam, chúng ta không thể phủ nhận đã có sự tương đồng với những thông tin tóm lược vừa nói về bệnh ung thư của con người...
Tôi tình cờ nhìn thấy hình Nguyễn Thúy Hạnh đang lơn tơn đẩy một cái xe cút kít đầy ắp bưởi (trên trang RFA) trong một cuộc phỏng vấn do Tuấn Khanh thực hiện, vào hôm 19 tháng Giêng năm 2021. Bên dưới tấm ảnh này không có lời ghi chú nào về thời điểm bấm máy nên tôi đoán có lẽ đây là lúc mà cô em đang hớn hở đến thăm vườn bưởi của họ Trịnh (ở Hòa Bình) vào “thuở trời đất (chưa) nổi cơn gió bụi”!
Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đang phải đối mặt với cuộc tranh chấp nội bộ trong kế hoạch tìm người kế nhiệm lãnh đạo khóa đảng XIV, nhiệm kỳ 2026-31. Những tranh chấp này được giữ kín để tránh hoang mang nội bộ. Chúng bộc phát ngay tại các Đại hội đảng địa phương và các ban đảng từ tháng 10 năm 2023...
Cuộc bầu cử tổng thống lần thứ 8 tại Đài Loan đã được tổ chức vào ngày 13/1 với kết quả là ông Lại Thành Đức Phó chủ tịch Đảng Dân tiến (Democratic Progressive Party, DPP) thắng cử...
Chúng ta đang làm nhân chứng cho một cuộc bầu cử kỳ quặc và đa sự chưa từng xảy ra trong lịch sử đầu phiếu ở Hoa Kỳ. Có thể nói, không chỉ lịch sử, mà rộng lớn hơn, chính là "sự cố" văn hóa chưa từng thấy. Bước vào năm 2024, sự tranh đua giữa hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ càng gay go, khốc liệt với âm mưu, độc kế, thủ đoạn, ám toán, bôi nhọ, mánh mung, để xem ai sẽ là chủ nhân của ngôi Nhà Trắng trong bốn năm tới. Tất cả những ý nghĩ, hành vi đó đều gôm vào chính sách, chiến lược và chiến thuật vận động bầu cử. Bạn đọc sẽ có dịp theo dõi các thầy bàn người Mỹ và thầy bàn người Việt (trong và ngoài nước) phong phú hóa, hư cấu hóa, ảo tưởng hóa về việc bầu cử, tạo ra câu chuyện nửa thực, nửa hư, thú vị, bất ngờ với giận dữ và thất vọng, sung sướng và buồn bã, rung đùi và cụng ly, nguyền rủa và chửi bới, vân vân. Thông thường những luận lý, âm mưu, phê phán, dự đoán đó… được mổ xẻ qua kiến thức và kinh nghiệm tây phương, nơi có hàng ngàn sách vở nghiên cứu chính trường, chính đạo,
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.