Tự Ngã Khẳng Định: Tôi Khai Mở
Thầy Hằng Trường
Openness có nghĩa là sự khai mở, cởi mở.
Trong tâm thức hàng ngày, tâm thái của ta sẽ ở trong dạng hoặc là đóng hoặc mở. Đóng và mở chỉ là tiếng cho dễ hiểu của chữ mê và ngộ mà ngàn xưa đức Phật dạy. Còn người mê muội cũng tức là người tâm lúc nào cũng đóng cả. Bậc giác ngộ là bậc khai mở hoàn toàn, lúc nào cũng ở trong trạng thái khai mở, không khoáng, thoáng, rộng rãi, vô cùng. Con đường giác ngộ chính là con đường làm cho ta ngày càng khai mở.
Thế nào là trạng thái đóng của tâm thức" Thí dụ như ta đang ngồi chơi, có người tới hỏi: ‘Xin chị giúp em bưng đồ ăn vào cất trong bếp’. Ta trả lời rằng: ‘Chị nhờ em hả" Còn lâu! Hỏi người khác đi!’. Hoặc ‘Em đâu có ở không đâu!’ Hoặc ‘Thì chị nhờ người khác đi mà’. Đại khái (underline message là) ta đang nói ‘Tôi đang đóng, đừng bắt tôi mở!’. Nhiều khi có người mắng ta, phê bình ta, thì tâm ta khó chịu vô cùng: ta đóng tâm lại.
Tức giận, khó chịu, hờn, lẫy, buồn, bực, ... đều là những tâm thái mà Phật gọi là phiền não. Thời nay ta cần gọi phiền não là trạng thái tâm đang đóng. Khi tâm đóng thì như mây giăng chằng chịt bầu trời. Bản thân bầu trời đại biểu cho tâm thái khai mở. Có mây hay không mây, bầu trời vẫn là bầu trời. Bầu trời bản thân không bao giờ có thể bị phá hủy bởi mây, mưa, giông, gió. Phiền não chỉ là mây mù, tới rồi đi. Đừng chú ý tới mây mù, mà chú ý tới bầu trời vô cùng vô tận thì ta sẽ không dễ bị phiền não làm chuyển lay. Sự chú ý và nhận tri ra bầu trời vô tận, và khả năng không bị mây mù hấp dẫn, gọi là khả năng khai mở. Duy trì sự khai mở gọi là tu luyện.
Trong cuộc sống hàng ngày, thâm tâm ta nhiều khi có vô vàn sự khẳng định tiêu cực, nhất là sự khẳng định phủ nhận bầu trời vô tận vô biên của tự tâm. Nói cách khác, ta thường (unknowingly) tự mình đóng cửa lòng, giăng mây mù, mà không hay không biết. Sau đây là những lúc ta cần biết là mình đang đóng cửa, đang giăng mây mù trời:
• Khi ta cự tuyệt
• Khi ta kháng cự lại lời phê bình của tha nhân
• Khi ta chống đối mãnh liệt chuyện gì
• Khi ta nổi dóa, giận dữ, bạo lực
• Khi ta tự biện hộ, tìm lý do bào chữa cho hành vi sai lầm
• Khi bực tức vì không được mãn nguyện, vì sự việc xảy
ra không đúng như dự định
• Khi ta âu lo vì làm sai, vì áp lực phải làm đúng thời hạn
• Khi ta sợ hãi, vì đủ nguyên do: từ sợ chết, tới sợ không an toàn, sợ mất mặt, sợ sai...
• Khi ta làm người khác sợ hãi, khi dọa nạt
• Khi ta lường lọc, gạt gẫm
• Khi ta chấp chặt vào một kiến giải, một lối suy nghĩ
• Khi ta giữ chặt vào hình ảnh của quá khứ, trong lúc
hiện tại không ngừng lao vút vào tương lai
• Khi ta che dấu điều sai lầm
• Khi ta núp sau một triết thuyết, một học thuyết, một
lăng kính nhìn
• Khi ta bỏn sẻn, không mở lòng bố thí, cho ra
• Khi ta bị dục vọng chỉ huy
• Khi ta làm biếng, nhác nhớm
• Khi ta chận đứng, cản trở, không cho tha nhân làm việc
• Khi ta ích kỷ, không chịu mở mắt mở tâm nhìn tới nhu
cầu người xung quanh
• Còn vô số trường hợp khác.
Những khi như vậy thì trong đầu ta, sâu trong đáy lòng ta, nơi mà ta hình thành những điểm mù, ta đang khẳng định rằng:
• ‘Tôi là sự khép kín. I am close.’
• ‘Tôi đóng. I am closed.’
• ‘Tôi đang đóng kín. I’m turned off, or I’m shutting down.’
Trên con đường tu luyện, ta nên làm những bước cụ thể sau đây:
1. Thư giãn thân thể: Giản đơn nhất là stretch (giãn gân), yoga để da thịt mềm dẻo, thư giãn (relaxation) da thịt, tới cách thư giãn sâu sắc hơn như thư giãn cơ phận (organ relaxation), thư giãn khí lực (Chi relaxation). Thư giãn cũng tương tự như lung lay cái cửa khép kín, làm cửa mở ra. Cửa chính là phần tinh thần, tâm linh. Do đó khi thân thể cứng ngắt, da thịt co thắt thì khó làm ta tinh thần nhẹ nhàng dịu dàng được. Trạng thái cứng ngắt chính là trạng thái đóng của thân thể.
2. Thư giãn hơi thở: Tập thở chậm lại, thở vi tế trong lúc ngồi thiền. Hơi thở chậm và vi tế sẽ giúp ta hoàn toàn thư giãn tới tận từng tế bào, từng sớ thịt. Khi hơi thở thô phù, cạn cợt thì tâm tình ta cũng thô phù, cạn cợt, khó thâm sâu vi tế. Sự thô phù và cạn cợt đương nhiên không thể mở ra cảnh giới vi tế thâm sâu được. Do đó thở vi tế, thở tâm sâu, là cách mở cửa vào thế giới tâm linh thâm áo.
3. Tri chân: Tập hình dung bầu trời vô tận của tự tâm, qua những lời khẳng định tích cực như ‘tôi là sự khai mở, I am open’. Lúc đầu ta chỉ hình dung, tưởng tượng; nhưng khi làm quen thì từ từ ta sẽ cảm nhận trên thân xác một cảm giác khai mở, và một tâm tình cởi mở.
4. Tri vọng: Tập nhận định, tri nhận xem lời nói và hành vi của mình là đóng hay mở. Giảm thiểu và sửa đổi ngay những lời nói và hành vi làm đóng tâm mình, tâm người. Thí dụ như mình mắng chửi, la lối, cộc cằn, đó là lời đóng. Hoặc khi ta cãi cọ, làm lẫy, làm dữ, làm tàng, làm khó, đó là hành vi đóng. Sau khi nhận định rằng đó là lời nói và hành vi đóng, ta lập tức thay đổi pattern của lời lẽ và hành vi ngay. Thí dụ như giảm bớt tối đa lời vô lễ, dữ dằn, cộc cằn, thay vào bằng lời nhẹ nhàng, dễ chịu, dễ chấp nhận. Giảm bớt tối đa hành vi xúc phạm, mà thêm hành vi hiền hòa, dễ thương.
5. Giác huyễn: Sâu thêm một tầng, ta nên tập nhận định động cơ của lời nói và việc làm. Nhận định ra những khẳng định tiêu cực của tự ngã, rằng ‘tôi đóng..., tôi không thể..., tôi không khả năng..., tôi bất lực..., tôi vất đi...’
‘I’m closed, I cannot, I’m unable, I’m hopeless, I’m done’.
Những lời khẳng định này là guồng máy nằm sau tất cả
những lời nói và hành vi âm cực, tiêu cực; do đó sự tri nhận và giải tỏa những lời khẳng định này chính là cách cải tạo vận mạng hiệu quả nhất.
Giai đoạn cứu cánh của 5 bước thực tập trên đưa tới Ngộ chân: tức là khả năng lúc nào cũng khai mở, thật sự cởi mở, thật sự thoáng, bất kỳ tình huống, bất kỳ hoàn cảnh nào cũng thoáng, cũng khai mở, cũng tự tại được. Ngộ chân là giai đoạn cuối sau nhiều năm tháng tập luyện giai đoạn tri chân. Từ chỗ tưởng tượng, hình dung rằng ‘I am open’, sẽ đưa ta tới những cảm xúc trên thân xác (giai đoạn tri chân); kế đó, với sự tinh tấn, nhập tâm, thường xuyên tập luyện, thường xuyên thể hội, sẽ dẫn tới chỗ chính trạng thái ‘openness’ sẽ bùng vỡ trên tâm thức của ta. Lúc đó, cổ nhân gọi là ‘hoát nhiên đại ngộ’, những ngăn trở do thân, tâm, quan niệm, tập khí, văn hóa, hoàn toàn tịch lặng; tất cả chỉ là một cảm nhận khai mở, thông suốt, vô cùng vô tận, vô ngại, vô vi. Như bầu trời xanh thẳm, mặc cho mây mù kéo giăng, sấm sét vang dội, bầu trời mĩm cười trong im lặng bao dung, vô ngại.
Cuối cùng cả, mình nên chú ý: không nên cố ý hay vô tình đóng cửa lòng tha nhân. Có ý đố kỵ, thù hằn, không chịu tha thứ, không chịu làm hòa, không chịu nhìn mặt tốt cái đẹp của những kẻ hay ghét mình, không chịu nhún mình, không muốn bày tỏ lòng quan hoài, không biết làm sao thương... đó là những tệ bịnh thông thường nhất mà người tu phải vượt thoát. Không có gì đẹp hơn là ta biết nói: ‘Cho em xin lỗi nhen!’ hoặc ‘Em biết lỗi rồi, tụi mình hòa nhen!’ hoặc ‘I love you!’
Thầy Hằng Trường