Hôm nay,  

Đảng Dân Chủ Với Tự Do Ngoại Thương

09/12/200600:00:00(Xem: 10111)

Đảng Dân Chủ Với Tự Do Ngoại Thương

Rạn nứt trong đảng vì Tự do Ngoại thương"

Với đảng Dân chủ sẽ kiểm soát lưỡng viện Quốc hội kể từ ngày mùng bốn tới đây, một vấn đề sẽ gây tranh luận trong Quốc hội, với Hành pháp và ngay trong đảng là tự do thương mại (ngoại thương hay mậu dịch). Ngoài chuyện Iraq và Hồi giáo thì đây cũng là vấn đề mà các nước khác sẽ phải quan tâm.

Người ta có thể thấy trước việc này từ quy chế PNTR cho Việt Nam.

Quy chế mậu dịch bình thường và vĩnh viễn đã được đệ nạp Hạ viện (dưới tên H.R. 5602) và Thượng viện (dưới tên S. 3945) mà sau cùng vẫn không được phê chuẩn sau những cố gắng cứu vãn trong hai ngày cuối tuần này. Có nhiều lý do chính trị giải thích việc ấy, kể cả việc đảng Cộng hoà thất cử tháng trước và đảng Dân chủ không muốn Tổng thống George W. Bush có một món quà đem qua Hà Nội trong dịp tham dự Thượng đỉnh APEC tháng trước.

Nhưng lý do chính yếu vẫn là lập trường bảo hộ mậu dịch của đa số đảng viên Dân chủ.

Về đại lược, hai phần ba các vị dân cử của đảng Cộng hoà ủng hộ chế độ tự do mậu dịch và hai phần ba các vị dân chủ bên đảng Dân chủ thì lại chống. Vì vậy, những người bảo trợ dự án không hội đủ túc số để thông qua dự luật chấp nhận quy chế PNTR cho Việt Nam dù điều ấy cũng gây thiệt hại cho nhiều doanh nghiệp Mỹ và doanh giới đã vận động rất mạnh ở hành lang.

Qua năm tới, tình hình sẽ ra sao" Đây là câu hỏi sẽ ám ảnh nhiều quốc gia khác trong thời gian hai năm trước mặt, cho tới kỳ bầu cử 2008.

Đây cũng là câu hỏi sẽ ám ảnh chính những người lãnh đạo đảng Dân chủ.

Một thành phần quần chúng ủng hộ đảng Dân chủ có lập trường chống tự do mậu dịch, thậm chí chống cả toàn cầu hoá mạnh nhất. Đó là các nghiệp đoàn và hiệp hội bảo vệ môi sinh.  Thông thường, họ rất nghi ngờ và kịch liệt chống đối các hiệp định thương mại song phương (BTA) hay Thỏa ước Tự do Ngoại thương (FTA) Hoa Kỳ ký kết với các nước khác.

Trong tám năm làm Tổng thống, dù khéo léo kiên trì vận động với sự hỗ trợ của đảng Cộng hoà, ông Bill Clinton không thuyết phục nổi phe Dân chủ trong Quốc hội chấp thuận cho Hành pháp được rộng quyền thương thảo các hiệp định ngoại thương theo thủ tục nhanh gọn, gọi là "fast track". Qua đến Tổng thống Bush thì Hành pháp (Đại sứ Thương mại trong Nội các của Tổng thống) mới có quyền ấy nhờ đạo luật gọi là Trade Authority Act, thông qua năm 2002.

Theo đạo luật này, đại diện của Tổng thống có toàn quyền thương thuyết về ngoại thương cho tới khi đạt thỏa ước và văn kiện này sẽ được Quốc hội phê chuẩn trọn gói, chấp thuận hay bác khước toàn bộ hiệp định, chứ không đòi tu chỉnh từng điều khoản trong nội dung để gài thêm những điều kiện có lợi cho thành phần cử tri của họ..

Nhờ vậy mà trong thời gian qua, Hoa Kỳ mới mở ra nhiều cuộc thương thảo và đạt nhiều hiệp định hoặc song phương hoặc cấp vùng, với từng nước hay từng nhóm quốc gia.

Đạo luật rộng quyền ấy sẽ mãn hạn vào ngày 30 tháng Sáu tới đây và nhiều phần thì sẽ khó được tái tục với đảng Dân chủ nay kiểm soát được cả hai viện. Chẳng những vậy, ngay trong cuộc bầu cử, nhiều ứng viên Dân chủ đã hứa hẹn là nếu đắc cử, họ sẽ xét lại các hiệp định đã ký kết hay đang thương thuyết. Và nhất thời sẽ không thương thuyết gì thêm.

Trong giai đoạn tranh cử, đảng Dân chủ đã chọn chiến lược đả phá - y hệt với vụ Iraq - bằng cách công kích kết quả hay thành tích của chính quyền Bush mà chỉ mập mờ cho biết rằng nếu đảng mà có quyền thì sẽ đạt kết quả khả quan hơn trong một số lãnh vực. Thí dụ như đạt nhiều điều khoản mậu dịch có lợi hơn chính quyền Bush. Chiến lược ấy quả nhiên công hiệu mà không bắt các đảng viên phải nói rõ quan điểm lập trường của mình về ngoại thương.

Bây giờ, phe Dân chủ đã thắng cử, nay sẽ tính sao với quyền lực mới"

Họ có thể sẽ rất lúng túng vì một lý do bất ngờ.

Nhiều lãnh tụ của đảng thực ra là người thực tiễn và không kịch liệt chống tự do mậu dịch hoặc đòi hỏi biện pháp bảo hộ mậu dịch và chống toàn cầu hóa. Nhưng quần chúng đảng ở dưới lại có lập trường thiên tả hơn, bảo thủ hơn về tự do kinh tế hay ngoại thương. Thậm chí gần với lập trường của xu hướng tự cô lập bên phe cực hữu như Ross Perot hay Pat Buchanan hoặc nghi ngờ doanh nghiệp như Ralph Nader, nhà đấu tranh cho môi sinh và quyền lợi giới tiêu thụ. Những nhân vật này đã từng ra tranh cử tổng thống và đại diện cho một xu hướng không nhỏ trong xã hội Mỹ.

Vì thái độ quá khôn khéo đến độ mị dân của ông Clinton khi dự thượng đỉnh của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO tại Seattle vào tháng 11 năm 1999, người ta thấy các xu hướng chống tự do mậu dịch và toàn cầu hoá đã kết hợp hành động từ hai cánh cực tả và cực hữu, từ các nghiệp đoàn đến bảo hộ mậu dịch, bảo vệ môi sinh. Từ đấy, mỗi hội nghị quốc tế lại là cơ hội cho các lực lượng này biểu tình chống đối. Với sự cố tình phá hoại bằng bạo động của các nhóm vô chính phủ, thân cộng và cả du đãng.

Nhưng, sau năm năm tung hoành, các lực lượng này bắt đầu rạn nứt. Hai thành phần trụ cột là các nghiệp đoàn và bảo vệ môi sinh đã chuyển dần lập trường về hướng ôn hoà hơn. Thay vì trực diện chống đối và phá hoại, họ cũng công nhận phần nào lợi ích của toàn cầu hoá - kể cả quốc tế hóa tiêu chuẩn bảo vệ môi sinh - và tiến vào đấu tranh chính trị, qua việc triệt để dồn phiếu cho đảng Dân chủ.

Trong vụ PNTR cho Việt Nam, dù nhiều Dân biểu và Nghị sĩ Dân chủ không ủng hộ và văn kiện chưa được thông qua, nhưng các nghiệp đoàn lớn của Hoa Kỳ đã không phát biểu ý kiến hay vận động đoàn viên tác động vào Quốc hội. Đây là chi tiết rất đáng chú ý.

Cũng thế, nhiều tổ chức bảo vệ môi sinh hết còn chống đối  các hiệp định thương mại song phương vì thấy rằng tự do đầu tư và ngoại thương có nâng mức sống cho các nước nghèo và nhờ đấy các nước này có khả năng và phương tiện quan tâm nhiều hơn đến việc gìn giữ môi trường. Thà vậy còn hơn!

Bây giờ, khi tình hình đã có xoay chuyển, rất chậm nhưng rất rõ như vậy, đảng Dân chủ bắt đầu lúng túng vì đã đến lúc phải trình bày chủ trương đường lối sao cho thích hợp với thực tế chính trị của đảng ở bên dưới. Lúng túng vì lãnh đạo của đảng ở trên đã thấy lợi ích của tự do mậu dịch và số người chống đối đã giảm, và hai thành phần cử tri trụ cột của đảng là nghiệp đoàn và bảo vệ môi sinh đã trở nên thực tế hơn. Nhưng đảng viên bên dưới vẫn có rất nhiều người cực đoan chống tự do mậu dịch. Họ có nói đến "mậu dịch công bằng" (fair trade) thì cũng chỉ để giới hạn tự do mậu dịch (fair trade) và bằng biện pháp bảo hộ mậu dịch (protectionist).

Sự lúng túng ấy sẽ được thấy ngay trong cuộc tranh luận về "fast track" khi đạo luật rộng quyền đàm phán ngoại thương sẽ mãn hạn.

Nhiều lãnh tụ Dân chủ đã thấy lợi ích của đạo luật này, y như lãnh đạo các nước khác.

Khi thương thuyết thì chỉ với Hành pháp là đủ - và đủ mệt để hai nước đạt được Hiệp định Thương lại Song phương BTA hay Thỏa ước Tự do Mậu dịch. Nếu đạo luật ấy bị đảng Dân chủ bác bỏ không cho tái tục hoặc bị tu chính để thu hẹp quyền đàm phán của Hành pháp thì các nước sẽ phải qua hai chặng thương thuyết, với Hành pháp rồi lại với Lập pháp.

Xưa nay, lãnh tụ các nước không ưa và không tin Hoa Kỳ vì nước Mỹ không giữ được chữ tín, chẳng vì lãnh đạo Mỹ ưa lật lọng mà vì chính trường Mỹ thường thay đổi. Chuyện Iraq là một điển hình!

Bây giờ, nói chuyện làm ăn với Mỹ cũng sẽ phải hai lần thương thuyết thì ai cũng nản!

Mà đạo luật này có hiệu lực trong năm năm. Hai năm nữa là ông Bush hết làm Tổng thống. Đảng Dân chủ hy vọng là mình sẽ giành lại cả Hành pháp nữa. Lúc ấy, chuyện thương thuyết mậu dịch hết là chuyện trừng phạt Bush! Nếu không khéo thì nội trong hai năm tới đảng Dân chủ sẽ chăng giây cột chân mình vào năm 2009.

Vì vậy, đảng Dân chủ phải tự xét lại mình và tìm ra những giá trị đồng thuận đủ mạch lạc để là một chương trình hành động khả thi và khả tín. Làm sao tìm ra những giá trị ấy khi cơ sở bên dưới vẫn chưa thống nhất nhận thức và ý kiến" Dưới thời Bill Clinton, ít ra đảng Dân chủ còn có một hệ thống tạm gọi là hoàn chỉnh về những mục tiêu - lương tối thiểu, chế độ bảo vệ sức khoẻ phổ cập, hợp tác quốc tế theo tinh thần tự do mậu dịch nhưng quan tâm đến môi sinh và cả quyền lợi của các nước nghèo.

Giờ đây, đảng Dân chủ phải tìm ra nền tảng đồng thuận ấy, từ lý luận đến các đạo luật họ sẽ ban hành.

Năm 2003, Chính quyền Bush đã thắng lớn tại Baghdad và ba năm sau mới thấy lúng túng khi phải cầm vận mệnh Iraq trong tay. Năm nay, đảng Dân chủ đã thắng lớn và bắt đầu cầm lấy con dấu mà chưa biết làm gì với cả Iraq lẫn ngoại thương.

Chuyện Iraq thì ai cũng nói, chuyện ngoại thương thì không. Mà chuyện ấy cũng ảnh hưởng rất mạnh đến tư thế của Hoa Kỳ với các nước khác, và đến quyền lợi của nhiều người Việt Nam đang hồ hởi với cánh cửa WTO vừa rộng mở.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nelson Mandela (1918-2013), quán quân Giải Nobel Hòa Bình năm 1993, nhà hoạt động chống chế độ phân biệt chủng tộc bị tù 27 năm, và là vị tổng thống người da đen đầu tiên được bầu trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên của nước Nam Phi vào năm 1994, đã từng nói rằng, “Giáo dục là vũ khí có sức mạnh nhất mà bạn có thể sử dụng để thay đổi thế giới.” Hơn ai hết, Nelson Mandela là người không những hiểu rõ giá trị thực sự của nền giáo dục mà còn áp dụng kiến thức đó trong việc làm thay đổi đất nước và dân tộc Nam Phi của ông. Ông đã dẫn dắt Nam Phi từ một quốc gia ngập chìm trong bóng tối của thù hận, phân hóa và lạc hậu để vươn mình lên trong ánh sáng của đoàn kết, hòa bình và phát triển.
Hoa Kỳ đã tấn công Iran. Chỉ vài ngày sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump gợi ý rằng có thể trì hoãn bất kỳ hành động quân sự nào của Mỹ trong nhiều tuần, ông tuyên bố vào ngày 21/6 rằng máy bay Mỹ đã tấn công ba địa điểm hạt nhân của Iran, bao gồm cả cơ sở bị chôn sâu ở Fordow. Các quan chức Iran xác nhận rằng các cuộc không kích đã diễn ra. Mặc dù ông Trump khẳng định rằng các địa điểm này đã bị "xóa sổ", nhưng vẫn chưa rõ các cuộc tấn công đã gây ra thiệt hại gì.
Jena, Louisiana – một thị trấn 4.000 dân lọt thỏm giữa rừng thông – nơi bảng hiệu đầu làng ca ngợi đội bóng nữ vô địch của bang, nhưng cách đó chỉ ba dặm, sau hàng rào kẽm gai và lời Kinh Thánh treo lủng lẳng, là Trại Giam ICE đồ sộ - do GEO Group điều hành. Nơi đây hiện giam giữ hơn 1000 người – phần lớn chưa từng bị kết tội hình sự, nhiều người chỉ là dân đang xin tị nạn hợp pháp, số còn lại chưa kịp hiểu vì sao mình bị bắt...
Tại sao Trump lại vội vàng ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và chính sách mới như vậy?AI: Có hai lý do.Đầu tiên, tổng thống vội vàng vì nếu có bất kỳ điều gì sai trái xảy ra vào đầu nhiệm kỳ, ông có thể đổ lỗi cho chính quyền trước và nhà nước (những người làm việc cho ông). Nếu để lâu, những điều sai trái sẽ là trách nhiệm của ông, và Trump không thích chịu trách nhiệm.Thứ hai, ông biết trong hai năm nữa, đảng Cộng hòa sẽ mất quyền kiểm soát Hạ viện trong cuộc bầu cử quốc hội và ông sẽ trở thành què quặt. Ông cần phải hoàn thành mọi việc ngay bây giờ. Ông muốn tập trung vào các doanh nghiệp của mình trong hai năm cuối nhiệm kỳ tổng thống,
Bao dung – một từ nghe thật thanh thoát. Âm tiết của nó cũng thật bình dị, thốt ra từ thanh quản nhẹ nhàng không cần uốn nắn, như cỏ mọc từ đất, như mưa từ trời. Vậy mà ngày nay, trong một xã hội đứng đầu thế giới về tự do, về quyền con người, hai từ “bao dung” bỗng dưng khó tìm. Chính trong tháng Sáu này, tháng gọi là Pride Month, những câu chuyện thương tâm về cộng đồng LGBTQ+ bị chìm trong bóng tối. Có lẽ trong sáu tháng qua, nước Mỹ có quá nhiều những phát ngôn, biến cố, thay đổi mà đối với truyền thông, đó là điều cần phải nói, và nói mỗi ngày. Hoặc cũng có lẽ, trong một chính quyền đang nỗ lực bác bỏ DEI, đóng chặt cửa với di dân, thì truyền thông cũng không dám đào sâu về những gì thuộc về cộng đồng yếu thế. Cho dù, đó là một án mạng lấy đi cuộc sống một con người, hoặc chấm dứt những nguyên tắc vốn đã được nhìn nhận hàng thập kỷ.
“Nơi nào người ta bắt đầu đốt sách, nơi đó người ta rồi cũng sẽ thiêu người.”— Heinrich Heine. Câu nói nổi tiếng từ thế kỷ XIX của thi sĩ Heinrich Heine, tưởng chỉ là tiếng vọng u ám của bóng ma lịch sử nhưng hôm nay, giữa thế kỷ XXI, lời cảnh báo ấy lại trở nên rúng động – ngay trên đất nước từng được xem là ngọn hải đăng của tự do học thuật. Oái oăm thay, những dấu hiệu đầu tiên của bóng tối không phát xuất từ một chế độ độc tài phương Đông, mà từ chính nước Mỹ – xứ sở từng được xem là ngọn hải đăng của giáo dục tự do.
Donald Trump không đội vương miện, nhưng ông đã luyện được cách bắt cả một đảng chính trị quỳ gối. Và cũng như các ông vua cổ đại, ông không cần luật – ông chính là luật. Nếu Toà Tối cao chống đối, ông sẽ gọi đó là “phản quốc.” Nếu truyền thông phản biện, ông gọi đó là “tin giả.” Nếu có cuộc bầu cử mà ông thua, ông sẽ bảo đó là “gian lận.” Và nếu có ai dám nói điều gì khác, ông sẽ gửi quân đội tới – như ông đã làm ở Los Angeles, để dạy cho đám biểu tình “hỗn xược” ấy một bài học về dân chủ... bằng đạn cao su và lựu đạn cay.
Ryanne Mena là một nhà báo đưa tin về tội phạm và an toàn công cộng cho Southern California News Group. Thứ Sáu, 6/6, ngày đầu tiên diễn ra cuộc biểu tình phản đối chính sách nhập cư của chính quyền Trump, chống lại các cuộc bố ráp của Cảnh Sát Di Trú (ICE), Mena đã có mặt ngay trên đường phố Los Angeles, bên ngoài Trung tâm giam giữ Metropolitan,L.A. Tại đây, cô bị trúng đạn hơi cay ở đùi bên trái Ngày kế tiếp, nữ phóng viên này bị trúng đạn cao su của các đặc vụ liên bang bắn vào đầu, bên phải, cách tai của cô chỉ khoảng 1 inch. Những tấm ảnh Mena và các đồng nghiệp khác bị thương lan tỏa khắp Instagram, Twitter.
Giữa lúc Tòa Bạch Ốc đang tìm mọi cách cứu vớt mối quan hệ Trump-Musk thì các cựu quan chức an ninh y tế cho biết chính quyền Trump hủy bỏ $766 triệu trong các hợp đồng nghiên cứu phát triển vaccine mRNA để chống lại các loại đại dịch cúm. Với họ, đây là đòn giáng mới nhất vào quốc phòng quốc gia. Họ cảnh báo rằng Hoa Kỳ có thể phải nhờ đến lòng trắc ẩn của các quốc gia khác trong đại dịch tiếp theo. ABC News dẫn lời Beth Cameron, cố vấn cao cấp của Trung tâm Đại dịch thuộc Brown University Pandemic Center, và là cựu giám đốc Hội đồng an ninh quốc gia Tòa Bạch Ốc, cho biết: “Các hành động của chính quyền đang làm suy yếu khả năng phòng ngừa của chúng ta đối với các mối đe dọa sinh học. Việc hủy bỏ khoản đầu tư này là một tín hiệu cho thấy chúng ta đang thay đổi lập trường về công tác chuẩn bị ứng phó với đại dịch. Và điều đó không tốt cho người dân Mỹ.”
Ăn mặc đẹp là nói về thời trang. Lịch sử “thời trang cao cấp” thuộc về truyền thống của Pháp: Haute couture từ thế kỷ 17. Đến thế kỷ 19, ngành thời trang cao cấp đã phát triển thành một phương tiện kích thích tăng trưởng trong nền kinh tế Pháp. Trong thời gian này, các nhà tạo mốt như Dior, Chanel và Balenciaga đã được thành lập. Tuy nhiên, vào thế kỷ 20, ngành thời trang cao cấp ở Pháp đã mất đi phần lớn sự huyền bí của mình và phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ các thị trường quốc tế khác, đặc biệt là ở Ý và Hoa Kỳ. Sự thành công của bối cảnh thời trang quốc tế và tiềm năng lợi nhuận đã thu hút sự chú ý của các tập đoàn hàng xa xỉ, được tiên phong bởi ông trùm kinh doanh người Pháp và người sáng lập LVMH Bernard Arnault vào năm 1987. Ngày nay, các tập đoàn này vẫn tiếp tục duy trì hoạt động lịch sử của các nhà thời trang xa xỉ thông qua việc bổ nhiệm các giám đốc sáng tạo, những người diễn giải và chỉ đạo triết lý thiết kế của thương hiệu.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.