Hôm nay,  
DAVEMIN.COM

Rằm Trung Thu xa xưa

13/09/202400:00:00(Xem: 1099)

Trung Thu
Hình minh họa

Lúc xưa thật xưa, người Việt Nam ta có tục lệ bầy cỗ Trung Thu vào dịp tết trăng tròn tháng 8 âm lịch. Cỗ này thường để dành cho trẻ con, vừa vui Trung Thu, vừa ăn bánh vừa ngắm trăng tròn, sáng tỏ.
 
Thường cỗ này gồm phần lớn là bánh Trung Thu, bánh dẻo bánh nướng và rất nhiều thứ trái cây, trái cây chánh là bưởi, bưởi hồng đào ngọt và tròn xoay như một vầng trăng. Ăn bưởi xong, có thể sâu hột trái bưởi, phơi khô đi sem sém, và có thể đốt hạt bưởi từng sâu như đốt nến, đèn cầy.
 
Gọt bưởi xoay tròn, người ta có cái vỏ rỗng, có thể cuốn lại làm một cái lồng đèn, đẹp và tiết kiệm… thêm nữa giống hình ông trăng.
 
Ngoài bánh, đèn, còn có ông tiến sĩ giấy trên mâm cỗ, ý là phụ huynh mua ông tiến sĩ về để làm quà và cũng là khuyến khích các con, các cháu phải noi gương học hành chăm chỉ, đỗ đạt cho danh gia vọng tộc thành đạt như ông tiến sĩ, gọi là ông trạng nguyên.
 
Bên cạnh bánh Trung Thu, ông tiến sĩ, còn là vô số trái cây, hoa quả sung mãn, như hồng, lê, cam, nhãn, táo. Họ làm thành từng mâm trái cây trồng lên nhau, cao và đầy màu sắc, gọi là mâm ngũ quả.
 
Có những lễ hội nhân gian thì chấm giải mâm ngũ quả đẹp. Mâm ngũ quả của gia đình nào đẹp nhất được giải thưởng. giải thưởng là tiền, vàng, hay sắc chỉ ban khen.
 
 Và thời xa xưa đó, cũng có lần ông trạng Quỳnh mang mâm ngũ quả đi thi và ông đã trúng giải.
 
Nhớ lại gần đây hơn thì ông trạng Quỳnh, là khi trước năm 1975, ở Sài Gòn vẫn có một con đường rất đẹp, tọa lạc nơi trung tâm thành phố, con đường mang tên gọi là đường Cống Quỳnh. Đường đó chạy ngang cửa nhà thương Từ Dũ, nối liền đường Hồng Thập Tự tới kênh Tầu Hũ…
 
Ngày đó, chưa đi học nhiều, đã có lúc tôi ngây ngô hỏi bà nội tôi:
 
Bà ơi, tại sao lại gọi là con đường Cống Quỳnh? Bộ ở đó có nhiều cống lắm sao?
 
Bà nội tôi cười hắc hắc trước cái ngây ngô của tôi, bà nói là: không phải đường có nhiều cống, mà là ông trạng Quỳnh, ổng không đậu trạng nguyên, ổng chỉ đậu hương cống, một chức thấp hơn trạng, nên người ta kêu con đường mang tên ổng là đường Cống Quỳnh!
 
Vả lại tánh khí ổng hay châm chọc người khác, có thể ổng thíếu tí chút oai đường bệ, nhưng nếu căn cứ vào cái tài văn chương chữ nghĩa, người ta có lúc vẫn kêu là trạng Quỳnh.
 
Theo ý bà nội tôi kể lại, khi xưa ông đùa dai, tính khí khác người thường thái quá, hay chế riễu mọi người nhưng chắc ông trạng Quỳnh là người sung sướng tại ổng đã sống tự nhiên như ổng thích. Thây kệ, ai muốn kêu là trạng Quỳnh cũng ổn, ai muốn kêu là cống Quỳnh cũng êm.
 
Nhưng trong lũ con cháu chúng tôi sống vây quanh bà, mà lỡ một khi, có đứa nào ba hoa tán dóc, tán láo quá cỡ bằng trời, là bà nội đưa tay làm hiệu:
 
Thôi, đủ rồi, vừa vừa vậy chớ… bay nói cứ như trạng đấy!
 
Có lần chúng tôi tìm dở sách in “giai thoại làng nho“ ra xem ông trạng tài giỏi cỡ nào, châm biếm chọc ghẹo thế nhân cỡ nào. Thì lần đó, may quá, gặp đoạn văn tả trạng sửa soạn một mâm ngũ quả đi thi, thi ngũ quả Trung Thu vào dịp hát hội trăng rằm.
 
Đúng vậy, một lần đó trạng đi ứng thi và trạng đoan quyết là thế nào trạng cũng giật giải.
 
Thời đó (1700-1760) triều vua Lê Dụ Tôn, đồng thời của chúa Trịnh Cương, chính chúa hàng năm hay lo tổ chức thi. Chúa và bà chúa rất khó tánh, khắt khe trong cách lựa chọn mâm ngũ quả trúng giải dự thi tết Trung Thu.
 
Thời đó, Hà Nội xưa, là ở thành Thăng Long, người giầu có hay mang mâm trái cây đi thi, người ta chọn những trái đẹp và ngon như hồng dòn Thái Nguyên, lê Đông Triều, nhãn lồng Hưng Yên, bưởi đào Nghệ An, cam Bố Hạ v.v…
 
Nhà nào ứng thí cũng đội tới phủ chúa mâm Ngũ quả nhiều màu, trái tươi, ngon, xếp lớp lang khéo léo. Riêng ông trạng thì đi tay không, ông chỉ cầm theo một cuộn giấy trắng và một cây quạt giấy xếp nếp, dài hơn cây quạt dân thường dùng.
 
Chẳng may năm đấy, đổi mùa và chúa bị cảm, chúa sợ nắng, sợ gió lùa, chúa chỉ ngồi sau màn che trướng rủ, nhưng bên cạnh chúa, hiện diện bà chánh cung, bà phụ với chúa một phần làm chủ khảo.
 
Vào cuộc thi, mọi nhà lần lượt xếp hàng, đặt lễ dự thi và qua mặt hai vị giám khảo để trình thưa.
 
Đến lượt ông trạng, chúa nhìn ông, bà chánh cung của chúa cũng nhìn ông. Ông mới từ từ mở cuộn giấy cầm theo, trải rộng ra bàn thi, gọi là án thư, trước mặt hai vị giám khảo, trên bản giấy, là hình vẽ của trạng Quỳnh. Ông vẽ cái gì? Thưa, ông vẽ rất đẹp, hình ảnh một thiếu nữ khỏa thân, đẹp yêu kiều, nằm nghiêng nghiêng, một chân co, một chân duỗi thẳng, hai bàn ta úp lại dưới ngực, 10 ngón tay khép lại đan chéo vô nhau khép nép. Dưới bức tranh, ông trạng có chú thích: mâm hoa trái thi giải rằm Trung Thu!
 
Xong đâu đó, ông trạng từ tốn tiến tới trước mặt chúa và bà chánh cung, thưa:
 
Xin chúa và lệnh bà thưởng ngoạn và chấm điểm cho!
 
Chúa lừ mắt nghiêm sắc mặt hỏi:
 
Người nghĩ thế nào mà dám bảo cái bản vẽ này là mâm ngũ quả?
 
Ông trạng lặng lẽ lùi ra xa tí chút, xếp cây quạt giấy dài lại, thong dong cầm quạt chỉ từng điểm trên bức tranh, ung dung như một vị chỉ huy xác định những yếu điểm trên bản đồ hành quân quân sự:
 
Trạng Quỳnh chỉ đầu cô thiếu nữ, và nói: thưa đây là quả bưởi đào, mọng và ngọt. Tiếp đó chỉ đôi mắt đen của nàng, thưa đây là nhãn lồng ngon có tiếng. Trạng chỉ tiếp bộ ngực căng đầy, thưa đây là đào tiên, trồng từ động thiên thai. Tiếp đến hai bàn tay xinh xinh của nàng với những ngón tay búp măng, thưa đây là những trái phật thủ cao quý… và dưới cùng kia, thưa là mít ạ!
 
Chúa đang ốm cũng bật cười ra tiếng.
 
Bà chánh cung, thì chán nản cánh đàn ông, bà cật vấn:
 
Trời ơi, ngỡ trạng cho xem trò gì ghê gớm mới mẻ, chớ cái thứ ngũ quả này thì nữ nhân nào mà không có.
 
Trạng lùi ra xa hơn chút nữa, trổ tài biện bác:
 
Tâu lệnh bà, tục ngữ có câu, người năm bẩy đấng, của năm bẩy loài. Đâu phải người nào cũng giống người nào. Có bậc anh hùng nữ lưu như bà Trưng bà Triệu, có những bậc hiếu hạnh tài trí… và cũng có những kẻ ăn hại, người trần mắt thịt, tầm thường vô số, thì đem gánh đổ ra sông ra biển không hết.
 
… Và thưa lệnh bà, cây trái thì cũng vậy, bẩm bưởi là có bưởi ngọt bưởi chua; đào có đào điếc, đào thơm,  đào lộn hột… nhãn có nhãn lồng nhãn khô. Mít, có mít mật, mít sơ, mít dai, mít đặc, mít ước, mít tố nữ… xin lệnh bà chấm kỹ cho, mâm ngũ quả của thần mang dự thí đây toàn là của quý!
 
Trạng cứ thao thao tán tỉnh, bà chánh cung vụt hỏi:
 
Như ta đây, trạng xếp vào hạng người nào?
 
Tâu lệnh bà, cứ nhan sắc và cử chỉ của lệnh bà, lệnh bà thuộc hàng khuynh quốc khuynh thành, nết na như Tây Thi nước Việt.
 
Bà chánh cung có vẻ xúc động trước vẻ xu nịnh, nhưng lại cũng yên trí là mình có sắc đẹp, có nết na thiệt.
 
Chúa thấy lệnh bà ngồi im cảm động, chúa liền phán cho trạng Quỳnh một câu:
 
Này, nếu mà mâm ngũ quả này của trạng mà là đồ thiệt, thì ta chấm ngay cho giải hoa khôi.
 
Lệnh bà thấy ghét cái thứ đàn ông ham vui, muốn đẩy cái bản vẽ của Quỳnh xuống đất, nhưng trạng lanh tay để nguyên lại chỗ cũ và trổ tài tán tỉnh:
 
Bẩm chúa, bẩm lệnh bà, nếu cái mâm ngũ quả của thần đây mà là đồ thiệt; có thể sờ được, dùng được, ăn được… thì giá trị của nó đâu có lâu bền. Những thứ ăn được, ăn ngon, ăn no mà vào nhà cao sang như phủ chúa, phủ lệnh bà thì ăn vài lần chán ngay!
 
Còn cái mâm ngũ quả bản vẽ này của thần là vô cùng quý giá, không sợ héo úa, không sợ phai tàn hay ung thối… nó vĩnh viễn với thời gian. Nó có thể ăn lúc no, ngắm lúc đói. Cả nhà, cả phủ, cả họ dùng và thưởng lãm hoài hoài không hề suy xuyển.
 
Khải lệnh chúa, khải lệnh bà, vì nó mang cái tính chất siêu vượt thời gian, không gian tới vô hạn đó mà thần mới dám đem trình thi nơi phủ chúa… còn chuyện được thua, chỉ là nhiên hậu.
 
Lệnh bà không hiểu lắm, thí sinh đang nói hươu nói vượn gì gì…  bà chợt nhớ, lúc nãy, ông trạng có liệt bà vào loại khuynh quốc khuynh thành như Tây Thi. Bà chợt đắc ý, chợt mỉm cười sung sướng.
 
Chúa Trịnh Cương mệt rồi, thấy lệnh bà cười và nhác thấy bức vẽ cũng rất đẹp… chúa liền đồng ý cho trạng quỳnh thắng giải, và ngài không quên buông thõng một câu:
“Nhà ngươi đúng là Trạng!“
 
Phỏng theo “Cống Quỳnh“ trang 91 giai thoại
làng nho của tác giả Phùng Tất Đắc.
 
Trung Thu 2024
Chúc Thanh

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong số các bạn, có những người đã ra đi không bao giờ trở lại, em tôi là một trong những người đó. Người dân Miền Nam vẫn luôn giữ hình ảnh hào hùng của các bạn trong trái tim với lòng biết ơn bao la. Thầy Năng Tĩnh ở một mình trong ngôi Chùa nhỏ vùng ngoại ô, rất xa thành phố. Ngôi Chùa chỉ là chiếc “mobile home” trên vài mẫu đất, trước kia là một nông trại bé tí teo, có hàng rào kẽm gai chung quanh để trại chủ nuôi bò. Từ ngày lập Chùa, Thầy chỉ nuôi một con chó nhỏ để làm bạn và mấy con gà trống, thả chạy tự do đặng nghe tiếng gáy cho vui. Sát hàng rào Thầy trồng mấy dây mùng tơi, khổ qua, giàn bầu và mướp trái xum xuê, bên cạnh đó là mấy luống cải xanh, rau thơm, cà pháo. Sân trước, Thầy đào chiếc hồ xinh xinh, có hòn non bộ, đầy đủ cảnh “Sơn Thủy Tùng Đình” với “Ngư Tiều Canh Mục”, trông cũng vui mắt
Tôi có cảm giác mọi người trong xưởng rất thương mến anh em ông chủ hơn sợ chủ đuổi việc, và anh em ông chủ cũng thương mến mọi người như anh em chứ không chủ thợ rạch ròi. Việc đến phải đến, ông chủ mướn người vô chạy máy sỏi đá mà tiếng Anh gọi là “deburr machine” thay cho ông Mỹ đen đã qua đời. Ông này dị tướng nên anh em chờ xem tài của ông vì ông bà mình nói những người dị tướng thường có tài. Nhưng một tuần trôi qua, chỉ có tuần tới tiếp tục chứ không có gì lạ về ông trọ trẹ. Ai cũng biết ông người miền trung nhưng ai hỏi ông là người tỉnh nào ngoài trung thì ông gắt gỏng chứ không trả lời. Ông lên lớp giảng giải cho người miền bắc, người trong nam hiểu ra chính sách chia để trị của thực dân Pháp chứ đất nước Việt nam liền một dải, người dân từ bắc vô nam nói chung một ngôn ngữ là tiếng Việt từ đời cha ông để lại giang sơn gấm vóc nước Việt cho con cháu. Sao người Việt lại nô lệ tự nguyện cho Pháp, đi phân biệt bắc trung nam để chia rẽ chính dân tộc mình…
Ba chục năm trước, Bê đã bắt đầu sự nghiệp thể thao của Bê. Số là, Ba vừa học xong lớp chuyển nghiệp. Thời gian chuẩn bị thi cử, Ba dạy kèm cho một người bạn cùng lớp. Thi đậu, người bạn tạ ơn Ba một cặp vé Musik Konzert. Lúc đó, Bê ở trong bụng Mẹ đã hơn sáu tháng. Mẹ kể, Mẹ đang năm đầu ở đại học. Trời mùa đông, Mẹ đi học, mặc áo khoác dày cui. Bởi vậy, bạn học không ai biết Mẹ sắp sửa có em bé, chỉ ngỡ Mẹ hơi lên cân, zugenommen. Bác bạn của Ba có lẽ không dè vợ của bạn là bà bầu nên mới mời đi Rock Pop Konzert của ca sĩ Jennifer Rush.
Năm đó, 1999, miền Trung Việt Nam nhất là ở Huế đang chịu trận thiên tai bão lụt lịch sử lớn nhât từ trước cho đến thời điểm bấy giò. Trong hội chợ tết, người Việt ở đây San Jose vui Xuân nhưng không quên đồng bào ở quê nhà. Từng đoàn Hướng Đạo Sinh Việt Nam được phân phối nhiệm vụ cầm những thùng lạc quyên để quyên tiền cứu trợ. Đang lang thang trong hội chợ, hai em bé trong đồng phục Hướng Đạo chận tôi lại. Một trai một gái. Bé gái cao hơn bé trai non nữa cái đầu, chửng chạc nói “Chú ơi, ủng hộ đồng bào bảo lụt đi chú”. Trọn một câu tiếng Việt, tuy phát âm không trọn vẹn, nhưng khá rõ ràng. Tôi nhìn hai em, nhất là bé gái đang thắt cái nơ trên đầu cái nơ mầu đỏ! Tôi bỗng thấy lòng bâng khuâng man mác.
Qua sự giới thiệu của phụ huynh học sinh, chiều nay tôi có thêm học trò mới. Tuy tin tưởng vào người giới thiệu, nhưng tôi cũng có sự dè dặt thường lệ. Đây không phải là lớp dạy thêm bình thường, mà là lớp dạy kèm “Anh văn chui” tại nhà. Nếu bị bắt “tại trận”, tôi có thể bị đuổi việc (nhẹ) hoặc cả vào trại tù "miệt thứ" dài hạn như chơi. Tuy rất nguy hiểm, nhưng được sự “bảo mật” của học trò lẫn phụ huynh và nhất là khoản tiền thù lao rất hậu. Lương giáo viên cấp 3 lúc đó (1978-1979) mỗi tháng $70 đồng cộng nhu yếu phẩm, thì mỗi học sinh "dạy thêm" tôi nhận được $80/ tháng. Chỉ cần ba học trò là mỗi tháng tôi có thêm đến $240 đồng. Đối với giáo viên lúc đó không phải nhỏ! Cà phê cà pháo, cơm hàng cháo chợ cuối tháng vẫn dư tiền bỏ ống. Phần nữa, học trò lớp “Anh văn chui” của tôi thông thường chỉ vài ba tháng là “ra đi”, nên cũng thường xuyên thay đổi.
Vừa đi vừa ngắm lá vàng vừa suy nghĩ chuyện cũ mà đến nhà Sarah hồi nào hổng hay. Sarah mở cửa với nụ cười thật tươi, Lệ thấy ngay phòng khách những giỏ táo đầy ắp, Sarah giải thích: - Hễ cuối hè đầu thu là nhà tớ hái toàn bộ các trái táo ngoài vườn sau, một phần để sên mứt, phần sấy khô, và phần làm bánh táo nướng.
Nhà thơ Trần Mộng Tú gửi tới tôi bài “Mùa Hạ Đom Đóm và Dế Mèng” khi tôi muốn cùng các ông bạn đồng lứa tuổi trở về những ngày xưa thật xưa. Chị Tú hình như cũng cùng tâm trạng với các bạn không còn trẻ của tôi: “Tháng sáu, tôi đến chơi với anh tôi ở Virginia. Cái nóng rịn mồ hôi trên thái dương, và khó ngủ lắm, buổi tối, tôi với anh ra ngồi ở bực thềm, nói chuyện. Tôi bỗng thấy thỉnh thoảng có những chớp nho nhỏ như lân tinh sáng lóe lên rồi lại biến mất trong bụi cây thấp trước mặt, hỏi anh tôi, cái gì thế? “Đom Đóm” Tôi lặng người đi một lúc như nghe thấy ai nhắc tên một người bạn thân cũ, nó làm tôi xúc động. Xúc động một cách rất mơ hồ, chẳng có nguyên nhân gì cả, chỉ là cái tên của một loại côn trùng bé tí được gọi lên. Cái tên nhắc nhở một quê hương xa lắc, một dĩ vãng nằm dưới tấm chăn phủ dầy lớp bụi thời gian. Trong bóng tối, tôi ngắm những cái chấm lửa nhỏ nhoi, lóe lên rồi tắt ngóm với trái tim nôn nao trong ngực. Có đến cả hơn bốn mươi năm tôi không được nhìn thấy những đố
Tọa lạc trong vùng ngoại ô Saint Maur, kề bên là bờ sông Marne hàng hiên ngang cửa nhà chú, chú đổ đầy đất đen đất vụn phải đi mua từng bao ở siêu thị bán cây trồng đất mua chú đổ vào lưng một cái bac ciment rộng lớn chạy ngang hàng hiên nhà. Trong bac chú trồng đầy hoa vàng, hoa nở thì lớn bằng đồng 50 xu, có năm cánh y hệt mai vàng ở Việt Nam, lá xanh non to bằng bàn tay con nít 5, 3 tuổi. Lá cũng rất thưa, hoa rất đẹp, vàng trong như mai ngày tết. Khi nắng gắt, mầu vàng có đậm thêm tí chút, sáng hé nở, trưa ấm nở rộ. Chiều chiều hoa cúp lại ngủ, ngày mai sáng sớm lại mãn khai, thân cây hoa chỉ cao lắm là đến đầu em bé 5, 6 tuổi. Nên hoa và cây không che vướng tầm nhìn từ trong nhà ra ngoài trời. Chú Phương yêu quý những cây hoa đó lắm. Vun tưới thường xuyên. Hỏi tên hoa đó là hoa gì? Chú trả lời ngon ơ: Đó là hoa vông vang của Đỗ Tốn, Chúng tôi không nhớ và cũng không biết ông Đỗ Tốn là ai
Trong sự bồi hồi xúc động, tay bắt mặt mừng, họ được gặp lại để trò chuyện với những người họ hàng thân yêu, những bạn bè xa gần thân thiết, nhìn thấy tận mắt những làng xưa chốn cũ, nhớ lại những kỷ niệm êm đẹp từ thuở thơ ấu cho đến ngày tạm thời phải rời bỏ những nơi này ra đi, ôi biết bao nhiêu nỗi xúc động trộn lẫn niềm sung sướng vô biên, nói làm sao cho hết được.
Những yếu tố lôi cuốn du khách đi du lịch đến một đất nước bao gồm cảnh đẹp thiên nhiên, văn hóa, thành phố lớn với những lối kiến trúc độc đáo, cuộc sống sôi động, ẩm thực, hoạt động phiêu lưu, kỳ thú ngoài trời, những buổi hòa nhạc, thể thao, nghệ thuật, hay lễ hội, địa điểm hành hương tôn giáo, phương tiện giao thông, vấn đề an ninh và bình yên; trong văn hóa, yếu tố con người chiếm một phần rất lớn khiến du khách khi rời xa, vẫn lưu luyến muốn trở lại lần nữa.
Nếu quý vị độc giả nào đã đọc câu chuyện tình cảm éo le, oan trái tràn đầy nước mắt: "Thằng Cu Tí và Thằng Cu Tèo" và nếu quy vị nào chưa đọc, thì xin hãy mở Google.com sẽ thấy đế tài này thuật lại 2 vị cao niên về thăm VN để hưởng tuần lễ trăng thanh gió mát quê nhà, sau nhiều năm phải rời bỏ quê hương để sống tha hương ngàn trùng xa cách nơi đất khách quê người đi tìm sự tự do. Nay mới có dịp được quay trở về thăm quê cha đất tổ, đồng thời còn được thưởng thức những món ăn đặc sản quê hương
Tôi lắng nghe, ngạc nhiên nhiều hơn thương cảm. Một người như Tầm mà bị lường gạt về lãnh vực 'xương máu' của mình. Tôi có thể hiểu và cảm thông an ủi trong mọi hoàn cảnh đau buồn, thất vọng của người thân chung quanh. Nhưng tôi lại rất vụng về khi phải đề cập đến mọi giao cảm đối với những con số. Tôi không có duyên phận và chung đường với nó. Nên tôi chỉ biết yên lặng, chờ đợi.
DAVEMIN.COM
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.