Hôm nay,  

Chuyện Tháng Bảy

14/07/202115:12:00(Xem: 4593)
Chiều tháng bảy năm ấy, một  buổi chiều mưa rả rích; trong thơ văn gọi là mưa ngâu, với những hình ảnh rất lãng mạn.... Bầu trời giăng mây tím, có đàn quạ bắt cầu cho Ngưu Lang Chưc Nữ gặp nhau… đó là trong truyền thuyết.

Mùa mưa ngâu năm 1978 có cả những giọt nước mắt tức tưởi của Mẹ con chúng tôi, khi chiếc xe ô tô loại jeep lùn và chiếc “ba càng” đỗ xịch trước cỗng nhà.

Ba tôi, hai tay bị trói ra phía sau, bộ áo quần bảo hộ lao động màu xanh thẩm còn vương cát bụi công trường, nét mặt phờ phạc...từ ghế sau xe Jeep nhảy xuống, bên cạnh là hai cán bộ ngành công an, áo vàng, cùng với tài xế cũng đồng phục công an... tất cả bước vào nhà. Họ đọc lệnh và lục soát mọi nơi trong nhà, từ phòng ba má tôi đến phòng học của anh chị em, nhà bếp... nói chung là mọi ngõ ngách. Để kiếm tài liệu!

Vợ con ngơ ngác, không biết tài liệu gì? Kết quả ... không có gì để ghi vào biên bản, họ cũng đưa ba tôi ra xe với tội: Tình nghi tham gia Đảng phái phản động chống phá chính quyền.

Hình ảnh cuối cùng cả nhà được  thấy là ba nói nhỏ; đúng hơn là xin phép được ngồi xuống để đứa con gái út 4 tuổi đến gần, ôm ba một cái. Ba xin được lột chiếc đồng hồ hiệu Titani dây vàng đang đeo trên tay để lại nhà, dường như ông đã linh tính được một tương lai trăm bề khó khăn của vợ con sau này.

Với những bước chân vô hồn năm Ba 49 tuổi, Ba tôi đi giữa hai cán bộ công an ra xe. Trời đã tối, trăng tháng bảy le lói, như tương lai mù mịt  của đàn con tám đứa sau ngày ba bị bắt.

Cũng như bao nhiêu gia đình có người thân bị bắt đi tù cải tạo không rõ ngày về, gia đình tôi như rắn mất đầu. Má tôi chạy vạy, khóc lóc, van xin những dì, những bác, những người thân bên tộc nhà Ngoại tôi; kẻ làm cán bộ cao cấp, người làm trong ủy ban... người xênh xang áo mũ dù trước kia họ đều là thành phần “nằm vùng” hoặc du kích đã từng chịu ơn ba má tôi trước sự lùng bắt của chính quyền VNCH ở miền nam.

Tất cả đều vô vọng; không ai biết Ba tôi bị đưa đi đâu. Những cái lắc đầu, những cái nhìn vô cảm không chút lương tâm. Chồng một bà dì ruột thì lên giọng đạo đức: “Đảng sẽ có chế độ khoan hồng nếu chú chịu hợp tác...”

Trong khi đó, tất cả những máy móc dùng trong nghề nghiệp của Ba tôi đem theo khi lên công trường làm việc cũng bị niêm phong. Đó là những cái máy Trắc địa nhập cảng từ Pháp, rất quý giá, Ba tôi dùng để ngắm tọa độ trước khi thi công một đoạn đường hay cây cầu, cái đập nước ... Cho đến những lô củi Ba tôi chặt trong rừng, chờ có dịp là chở về ĐN để gia đình dùng... Tất cả đều bị tịch thu, không có giấy tờ.

Sau nhiều tháng biệt tăm, Má tôi hỏi thăm thì được biết thời là từ trại giam Kho Đạn các tù nhân sẽ được đưa vào trại giam Hội An rồi mới chính thức đưa vào các trại lớn khác rải rác khắp cả nước. Không nhớ bằng cách nào Má tôi biết là Ba đang ở Hội An; Má liều mạng đi Hội An; may quá, được gởi chút thực phẩm chứ họ không cho gặp mặt. Theo thông lệ, sau khi bị giam ở Hội An thì tuỳ theo tội lỗi, phạm nhân sẽ bị chuyển giao đến một trong nhiều trại tù đang có rải rác từ  Bắc vào Nam mà không hề có một thông báo nào cho gia đình biết. Có người khi biết thì chỉ là một nấm mồ nơi rừng núi hoang vu hoặc may lắm có bạn đồng tù nhắn với gia đình báo dùm.

Tình cảnh gia đình tôi thời đó thật bế tắc. Tôi đang ở Sài gòn, trọ tại nhà một người bạn của Ba để chờ đi vượt biển. Anh trai lớn nguyên là học sinh Kỹ Thuật Cao Thắng Đà Nẵng, anh vỡ mộng làm chàng   sinh viên Bách Khoa Phú Thọ vì nạn lý lịch. Anh tôi ôm ba lô đi làm công nhân cầu đường. Chấp nhận đi khuân gạch đá, cưa bom, vét cống khi tuổi đời vừa chạm 20. Đứa em gái kế tôi, tuổi xuân phơi phới như các bạn cùng lứa thì theo đoàn thanh niên đi đào kênh Phú Ninh để giảm bớt miệng ăn ở nhà. Mặc dù nơi đó cũng chẳng hơn gì. Những bữa ăn “một cục sắn gắn 3 hột cơm”. Ở thì tù túng trong các lán trại mà suốt ngày phải chạy theo chỉ tiêu, năng suất và luôn miệng hát hò ngợi ca sự sáng suốt của lảnh đạo.

Đàn em còn lại của tôi, đứa đi bán bánh mì, đứa bán cà rem, bán thuốc lá, đi đổi nước (không phải bán nước😂), những đứa lớn hơn thì đạp xe thồ… Má tôi thật sự trong tình thế bước vào con đường cùng. Buôn bán khó khăn và không có vốn liếng. Vì ba má tôi vừa xây nhà xong là biến cố 1975 ập đến.

Gia đình tôi lây lất sống còn nhờ… Chợ Trời xuất hiện. Không buôn, chỉ có bán những thứ trong nhà: từ quạt máy, tủ lạnh, máy giặt … đến TV, tủ bàn, chén bát … rồi áo quần, xe cộ … tất cả lần lượt ra đi. Những cánh cửa sổ, cửa kính cũng không cánh mà bay… Gia đình tôi đương nhiên gia nhập vào hội vô sản. Không còn gì cả ngoài ngôi nhà to đùng, trong đó có người phụ nữ mới trên 40, hai vai gánh đàn con tám đứa không tương lai, chồng biền biệt lao tù không biết nơi nao?

Một ngày mùa hè, anh trai lớn của tôi từ công trường xây dựng cầu đường Tam Kỳ, đón xe đò về Đà Nẵng, anh hớt hải tuyên bố: “Ba bị đưa lên trại giam Tiên Lãnh”, (lúc đó hình như còn là huyện Tiên Phước QN.)


Má tôi ngơ ngác, anh Hai gở kính cận lau bụi rồi từ từ kể:

“Con đang ngồi đập đá ở công trường, có một thằng bé bán cà rem mặt mày nhem nhuốc vì nắng và bụi đất đỏ, bước vào rụt rè hỏi:

- Dạ, đây có phải Đội Cầu số 1 không?

- Mi hỏi làm chi?
(Buồn cười cho kiểu nói của dân Xứ Quảng. Luôn luôn trả lời bằng một câu hỏi)

- Dạ con lượm được tờ giấy ni, con đi kiếm chú Tuấn ở Đội Cầu 1.

Ngay lúc đó anh Hai tôi bỏ cái búa xuống bước tới. Thằng bé tiếp:

- Dạ, con đọc ở đây nè chú: Ai lượm được giấy này nhờ đưa cho con trai tôi là: Nguyễn … Tuấn…, đang làm ở Đội Cầu 1 Tam Kỳ QN, chú coi đi!


Anh Hai tôi lật qua lật lại tờ giấy, thấy nét chữ bằng bút chì của Ba tôi, mặt sau ông viết chỉ một dòng: “Ba đã bị đưa đi trại 1 Tiên Lãnh.”

Ôi, thì ra Ba tôi tuy ngồi trong xe bịt bùng nhưng cũng biết “nhắm tọa độ” khi xe chạy ngang vùng đất Tam Kỳ. Không biết sao ông đã chuẩn bị sẵn “tờ rơi” này và thả xuống ngay đoạn đường mà ông nghĩ may ra có người lượm được sẽ chuyển dùm cho con trai ông đang làm công nhân ở đây.

Viết tới đây thì tôi cũng rùng mình vì sự nhiệm màu của niềm tin với ơn trên. Không ai có thể tưởng tượng được, Trưa hè, một mảnh giấy nhỏ thả xuống dọc đường; một cậu bé bán cà rem với sự tử tế, có tâm có lòng… tất cả như có phép lạ đưa đến một kết quả như ý.

Mảnh giấy đã đến tay người nhận không những chính xác mà còn đúng lúc. Càng khâm phục Ba tôi đã xuất sắc như một điệp viên chuyên nghiệp 😃. Mọi diễn biến như có sự sắp đặt từ bàn tay của thượng đế; điều mà chúng ta gọi là kỳ tích.

Sau này, khi Ba đã được thả về, tôi thường tò mò hỏi lại “vụ án” này, Ba tôi thường trả lời rằng: “Ba cầu xin nên Trời Phật cho thôi. Thử hỏi mảnh giấy bằng bàn tay thả bay trong nắng gió trên quốc lộ 1, chỉ có Trời Phật đưa đẩy thì mới gặp chú bé bán cà rem cũng biết chữ và có lòng của một vị Bồ tát… chứ chẳng ai tài giỏi gì! Mình có cầu khẩn thì có niềm tin, có hy vọng mới đạt được chứ buông xuôi thì … sống sao nổi?” Quan niệm sống này của Ba tôi đã giúp ông vượt qua những tháng bị bỏ đói, biệt giam, hai chân bị cùm, tiêu tiểu tại chỗ, không ánh sáng, không cử động… một cách giết từ từ rất thâm độc của phe thắng cuộc.

Những chuyến thăm nuôi được tiếp tục ròng rã hơn mười năm. Niềm tin và những suy nghĩ tích cực giúp Ba tôi vượt qua những gian lao thử thách trong trại tù Tiên Lãnh. Một trại tù khét tiếng của miền trung Việt Nam do công an quản lý.

Ba tôi rời trại tù một ngày giáp Tết. Cụ ông sáu mươi tuổi sau những ngày bịnh hoạn được hồi phục nhờ sự giúp đỡ của những người thân trước kia từng xem Ba tôi là ân nhân, thời Ba còn huy hoàng. Ba tôi có công việc làm, kiếm được tiền và dường như bắt đầu có tiếng tăm trở lại trong lãnh vực xây dựng cầu đường và nhà cửa. Nhiều chú thầu khoán đã giúp Ba tôi có đủ tiền để làm hồ sơ xuất cảnh theo diện HO. do chính phủ Hoa Kỳ bảo trợ.

Tháng bảy, ngày 12 năm 1994 Ba cùng 4 người con và 1 cháu ngoại giã từ người thân từ Sài Gòn chúng tôi bay sang Hồng Kông; ghé qua đảo Guam để máy bay được tiếp nhiên liệu và đặt chân đến Los Angeles tối ngày 13 tháng 7. Được tổ chức Di Cư Quốc Tế (IOM) đón tiếp vào ngủ lại ở Hotel, đêm đó có 6 phần Fried Chicken được mang tận phòng cho bữa tối nhưng cả nhà không dám ăn vì sợ không có tiền trả, hơn nữa cũng chưa quen với mùi bơ chiên.

July 12 2021, hôm nay, hai mươi bảy năm đúng, con của ba từ những đứa đi cùng ba cho đến 3 gia đình ba bảo lảnh sau này tất cả đều có cuộc sống ổn định. Người làm việc ở Hãng xưởng thì được thăng tiến, đứa kinh doanh thì đều là chủ nhân Tiệm Nail, salon Tóc, tiệm ăn ...

Những đứa cháu ra đời trên quê hương thứ hai có bàn tay ba chăm bón, nay đã tốt nghiệp đại học, trung học. Mọi thành công mà thế hệ con và cháu đang có được, trước hết là nhờ vòng tay rộng mở của đất nước và người dân Hoa Kỳ, nổ lực của bản thân còn phải nhớ đó là công đức của Ba, là đánh đổi hơn mười năm tù tội của một cụ ông bây giờ đang ngày ngày ngồi nhìn ra cửa, không vui không buồn, không biết ngóng trông gì?....và luôn luôn có một người phụ nữ đứng sau lưng ông: Má tôi, thân cò… lặn lội nuôi chồng tiếng khóc nỉ non. Người mẹ, người vợ đã chịu rất nhiều thiệt thòi mất mát như bao người phụ nữ Việt Nam từ thời chiến đến thời bình… Nay cũng bắt đầu quên hiện tại mà chỉ nhớ những gì không đáng nhớ trong quá khứ.

Tháng bảy đối với gia đình tôi có nhiều chuyện không thể nào quên: vui buồn, đau khổ, tuyệt vọng rồi thành công….

Xin tri ân tất cả những gì đã trải qua, những ơn phúc được ban bố, những kết quả trong hiện tại.  Xin tri ân cơ hội làm lại cuộc đời tại quê hương thứ hai này.

Và tận trong lòng tôi, mãi mãi câu chuyện mảnh giấy nhỏ Ba tôi thả từ xe bịt bùng báo tin: Ba đã bị đưa đi trại 1 Tiên Lãnh và cậu bé Bồ Tát nhặt được đem giao tận tay anh Hai tôi luôn là câu chuyện nhiệm màu không giải thích được.

Nguyễn Diệu Anh Trinh
July 12 2021

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.