Hôm nay,  

Ánh sáng ngôn ngữ một lần trong xứ sở chiêm bao

09/05/201806:37:00(Xem: 4998)
Ánh sáng ngôn ngữ
một lần trong xứ sở chiêm bao
 
Tô Đăng Khoa

 

 

Tản Văn Thi là tác phẩm thứ mười một của Nguyễn Thị Khánh Minh phát hành năm 2018. Sau những thi tập và hai tản văn Bóng Bay Gió Ơi và Lang Thang Nghìn Dặm thì đây là tập Tản Văn Thi. Trước đây, chúng ta thường được biết đến Nguyễn Thị Khánh Minh như là một Khánh Minh-Thi Sĩ.  Nhưng ngay bài tản văn đầu tiên ra mắt độc giả, tức là bài Theo Cảm Xúc Mà Đi… in trong tập Bóng Bay Gió Ơi, bài mà sau khi đọc xong, nhà văn Phan Tấn Hải không khỏi kinh ngạc và gọi đó là “một tản văn dị thường” như trong lời bạt cuối sách.

    Tôi thú thật cũng có cùng một cảm nhận như của anh Phan Tấn Hải đối với các tản văn của Nguyễn Thị Khánh Minh. Theo chỗ tôi hiểu một cách cụ thể, sự “dị thường” đó có lẽ chính là tác dụng của các tản văn Nguyễn Thị Khánh Minh lên tâm thức của người đọc.

    Tác dụng “dị thường” trong Tản Văn Thi của Nguyễn Thị Khánh Minh, theo tôi, có lẽ trước hết nhờ vào thái độ vô cùng cẩn trọng trong cách chọn chữ rất chuẩn xác để lột tả những nét riêng và chung của những cảm xúc phổ quát, thuần khiết, trong các mối liên hệ linh thiêng huyền nhiệm giữa người-với-người và người-với-thiên-nhiên. Nhờ thái độ cân nhắc, cẩn trọng, không vội vã này, mà các tản văn thi được Nguyễn Thị Khánh Minh viết ra đều đẹp, thi vị, thâm trầm, nhẹ nhàng, và là sự hòa nhiệm hôn phối tuyệt hảo giữa Văn và Thi.

    Nhưng ở tầng sâu hơn, sự phối hợp tài tình của những con chữ trong tản văn thi Nguyễn Thị Khánh Minh đã thành tựu một sự kiện “dị thường”: Nó trở thành con thuyền huyền thoại cổ tích, đưa độc giả đến xứ sở của những giấc mơ (rất riêng tư) và tác động thẳng đến tầng sâu vô thức của người đọc. Tại đó, ngôn ngữ ánh sáng gợi lại những giấc mơ xưa trong lòng ta, những thứ mà tưởng chừng đã vĩnh viễn bị chôn vùi trong những bôi xóa của một thời bá đạo gian ác lộng hành.

blank 

Khoảnh Khắc Giấc Mơ, thực và mộng đan lẫn vào nhau. Nét đẹp huyền thoại, con thuyền cổ tích khi vượt qua ranh giới của mộng và thực đã gột rửa tất cả các định danh, dán nhãn, tên gọi của thói đời quy ước. Khi qua biên giới của giấc mơ, người ta không còn có cả một khuôn mặt, hay một tên gọi. Trong “xứ sở của giấc mơ”, chưa từng có ai nhìn rõ mặt mũi của chính mình bao giờ.

    Nếu tâm thức có một sự chuẩn bị trước, độc giả có thể sẽ được ngôn ngữ ánh sáng của Nguyễn Thị Khánh Minh dẫn đến gặp nhà thơ Mặt Trời.

    Tất cả bình đẳng trong ánh sáng chói lòa của nhà thơ Mặt Trời. Mọi thứ được phơi bày, bộc lộ, chói sáng, không giấu giếm:

 

 Lồng lộng nắng phương Đông, chắt chiu hết tinh khôi nhân ái rắc xuống cánh đồng thơ diễm ảo.

 

Ánh sáng tinh khôi nhân ái đó có khả năng “dị thường của nó”: cô lập, vô hiệu hóa cái Ác, làm cho tái sinh mầm hy vọng. Khoảnh Khắc Giấc Mơ đó (dù ngắn) cũng vừa đủ để vô hiệu hóa sự tàn phá khôn kham của những đêm hoang vu trên mặt đất.

 

Nói cách khác, những tản văn thi dị thường này có khả năng nuôi dưỡng niềm tin yêu, nó giúp ta trải nghiệm trở lại tất cả các “cảm xúc phổ quát” của những mối liên kết huyền nhiệm giữa một người-với-người và người-với-thiên-nhiên.  Sự tình này xảy chỉ trong một khoảnh khắc rất huyền nhiệm, Khoảnh Khắc Giấc Mơ, bài mở đầu của tập Tản Văn Thi. Xin hãy cẩn trọng, đọc cho thật chậm rãi, ta có gì đâu phải vội.

 

Tiếng chim ríu rít mách tôi sự trong trẻo ban mai trao lòng tin cậy. Bóng đêm mở nỗi sợ cho tôi tìm ra ánh sáng bờ vai nương tựa. Những vì sao tặng tôi cách nhìn ngây thơ trong sáng. Gió cho tôi đôi cánh và đường bay mơ ước con người. Bóng mây tan nhắc tôi mỗi phút giây ở lại bên mình yêu dấu. Tiếng cười bé thơ cho tôi nghe reo vui lời tâm kinh bát nhã.

 

Nơi kia nhà tôi. Mỗi ban mai thấy mặt trời lên. Nơi kia tình yêu tôi. Không ngừng khoảnh khắc phút giây hiện hữu. Nơi vòng tay tôi vẫn ấm lòng nhân gian bầu bạn cho dẫu từng nhịp quay thế giới đang chìm dần trong tối. Và may thay nước mắt còn rơi từng hạt sông chở niềm đau về biển.

 

Đó là bức tranh sắc mầu cuộc sống. Nên tôi quý những điều tôi đã nhận. Nên tôi tận lòng với những điều đang ở. Và tôi đem những điều không thể, phó thác vào chiêm bao. Mơ mộng. Mở con đường trú ngụ hơi thở tịch lặng nơi tôi được tỏa hết mình bằng ánh sáng của lời, dù chỉ một lần...

 

Trong sáng láng ấy tôi đã gặp nhà thơ Mặt Trời. Lồng lộng nắng phương đông, chắt chiu hết tinh khôi nhân ái rắc xuống cánh đồng thơ diễm ảo. Tôi thức giấc từ lời hát của một bông cỏ dại người ban tặng và mảnh vỡ trái tim tôi thành những hạt pha lê được nuôi sáng bằng lời thơ dâng hiến.

 

Tôi biết. Tôi sẽ được cất tiếng. Trong mùa thơ quyến dụ ấy với ngôn ngữ tình nhân. Ngôn ngữ tôi nghe một lần trong xứ sở chiêm bao. Khoảnh khắc giấc mơ tôi thực sống…

 

Trong mùa thơ quyến dụ ấy với ngôn ngữ tình nhân, chúng ta có nghe ra được chăng? Ta có nhìn thấy “Ánh sáng của Ngôn ngữ một lần trong xứ sở chiêm bao”?  “Xứ sở chiêm bao” đó ở đâu? làm sao vô được?

    Nếu muốn vào “xứ sở chiêm bao”, chúng ta hãy thong thả đọc lại bản chỉ đường của thi sĩ Nguyễn Thị Khánh Minh:

 

  1. Biết chấp nhận “bức tranh sắc màu của cuộc sống”: hãy học cách trao lòng tin cậy, hãy giữ cái nhìn ngây thơ trong sáng.
  2. Biết quý những điều đã nhận, tận lòng với những điều đang ở và đem những điều không thể phó thác vào chiêm bao.
  3. Biết mơ mộng, biết trú ngụ hơi thở tịch lặng tâm hồn.

 

Đó chính là chiếc vé thông hành cho con thuyền cổ tích đi đến xứ sở của những giấc mơ, thiếu nó, chúng ta không thể nào mở ra con đường để mơ lại giấc mơ xưa cổ tích.

 

Mơ mộng. Mở con đường trú ngụ hơi thở tịch lặng nơi tôi được tỏa hết mình bằng ánh sáng của lời, dù chỉ một lần...

 

Vâng chính ánh sáng của lời (dù chỉ một lần) cũng đủ để chỉ con đường cho chúng ta đi vào “xứ sở chiêm bao”. Thành quả của các “tản văn thi dị thường” như trên chính là sự xác lập, và sự gìn giữ và dẫn tới một khoảng không gian bất khả xâm phạm ngay trong tự thân của mỗi chúng ta, một “xứ sở chiêm bao”.

    Đó là đồn lũy cuối cùng của Chí Thiện trước vòng phong tỏa của muôn trùng cái Ác. Sự “dị thường” của việc nhận ra “xứ sở chiêm bao” này là: cái Ác không còn khả năng làm ta nao lòng nữa. Sau khi đọc xong tản văn thi của Nguyễn Thị Khánh Minh, niềm tin nơi cái Chí Thiện của chúng ta được xác lập.

    Vì thế, tuy hình thức của bút pháp là tản văn thi, hiểu theo ý nghĩa phân kỳ, lang bạt, nhưng nội dung của các “tản văn thi dị thường” này của Nguyễn Thị Khánh Minh lại mang ý nghĩa của hội tụ.  Đó là “sự hội tụ” của một “xứ sở chiêm bao” không phân biệt sắc tộc, biên giới, giới tính, hay tôn giáo, và thậm chí không cả một khuôn mặt!

    “Sự hội tụ” này được thành tựu nhờ một sự chuẩn bị trước: biết chấp nhận bức tranh sắc màu của cuộc sống, biết trao niềm tin cậy, biết gìn giữ và chọn lựa cách nhìn ngây thơ trong sáng, biết quý những điều đã nhận, biết tận lòng với điều đang ở, và đem điều không thể phó thác vào chiêm bao, biết mơ mộng và quan trọng hơn hết: biết trú ngụ hơi thở tịch lặng tâm hồn. 

    Một tản văn thi nhưng lại có tác dụng hội tụ rất thần diệu như thế thì thật đáng để được gọi là “một tản văn thi dị thường”.  Một cách nào đó, với ngôn ngữ tuyệt mỹ và chuẩn xác của mình, Nguyễn Thị Khánh Minh đã làm Tản Văn Thi tỏa sáng con đường đi vào “xứ sở chiêm bao” cho cả chính mình và độc giả: con đường huyền thoại cổ tích của “xứ sở chiêm bao” với tất cả “quyến dụ của ngôn ngữ tình nhân”.

    Ánh sáng ngôn ngữ soi đường của các tản văn thi Nguyễn Thị Khánh Minh cũng còn được thấy trong bài Bầy Lá Non Thở Dài Trong Đêm, một tản văn thi mà tôi rất thích:

 

Đêm im, bầy lá non không hát nữa hồn nhiên, nghe trong cây tiếng thở dài khe khẽ, nghe không gian từng sợi nhỏ rung rung, và tôi nữa, một cành khuya đợi gió về thắp sáng.

 

Tôi có cảm tưởng là người ra vào “xứ sở giấc mơ” một cách không khó khăn, Nguyễn Thị Khánh Minh đêm nào cũng dong buồm về an trú trong “xứ sở giấc mơ” của chính mình. Nơi đó, tác giả hóa thân thành một “cành khuya đợi gió về thắp sáng”, nơi đó thấm đậm tình nhân ái, ánh sáng chói lòa, Nguyễn Thị Khánh Minh thương lắm, nửa bên kia của thói đời như mộng mà cứ tưởng là thật:

 

Muốn gửi về phía đêm hương hoa chớm mùa say đắm, ngõ chiêm bao rộ sắc thời gian. Muốn gửi về phía ngày hương khuya sâu mộng mị cho mai về nắng sống lại tươi mươi.

 

Ôi, làm sao nói cho thấu cái con người cơ khí, đã quá quen thuộc với cái trò “cò kè bớt một thêm hai” đó hiểu thấu được thế nào là “ngõ chiêm bao rộ sắc thời gian”.

 

Phía bên thói đời đó chỉ có im lặng, họ không biết mơ, họ rất sợ chuyện phải mất đi khuôn mặt:

 

Im lặng ơi, có phải không muốn nghe lời xôn xao của gió?

 

Cái Ác tràn lan, tràn cả vào miếu đền, tràn cả vào nghệ thuật:

 

Người nghệ sĩ đã không đàn thêm nữa, giọt âm thanh đọng lại bên thềm, thành bầy sương khóc thầm trong tối, xin đêm là đôi cánh chở tiếng nhạc về trong mỗi giấc mơ…

 

Trong bóng đêm nữ sĩ Khánh Minh từ “xứ sở giấc mơ” hằng đêm nguyện cầu kiên trung chờ đợi một ngày ánh sáng Chí Thiện sẽ xóa tan cái Ác ảm đạm này.

 

Bài Bầy Lá Non Thở Dài Trong Đêm này được tác giả viết vào tháng 3 năm 1978.  Đêm nay nữa là tròn 40 năm nguyện cầu:

 

Tôi vẫn chờ, thời gian giú mầu xanh trong tóc sẽ ngày mai chín nắng sum vầy sẽ tóc bay gọi bàn tay về nói nhỏ.

Tôi vẫn chờ dù lời hẹn có dài hơn năm tháng tôi vẫn chờ dẫu đêm nay đêm nhủ lòng trăng tận...

Trong tiếng thở dài hút khuya trong tiếng reo mầm nắng non đang nhú.

Tôi vẫn chờ, chắc sẽ không lâu…

 

Là một độc giả hậu bối, tôi thật sự xúc động trước những lời mộc mạc đơn sơ, nhưng thấm đậm tình nhân ái và chân thật của tản văn thi này. Bốn mươi năm, một nỗi chờ đợi thật kiên nhẫn và bao la!

    Đọc những tản văn thi trên tôi chợt có một ý nghĩ: ước gì các tản văn Nguyễn Thị Khánh Minh được đưa vào các bài tập đọc vỡ lòng của các em học sinh. Cũng như tôi đã từng học thuộc lòng bài tập đọc Tôi Đi Học của Thanh Tịnh. Tôi ước ao các em học sinh của các thế hệ mai sau sẽ biết đường vào “xứ sở chiêm bao” được Nguyễn Thị Khánh Minh tái hiện trong những “tản văn thi dị thường” mộc mạc nhưng thấm đậm tình nhân ái này.

    Tôi cam đoan chắc chắn rằng những tản văn, tản văn thi, của Nguyễn Thị Khánh Minh nếu được dịch sang các thứ tiếng khác, thì tác dụng “dị thường” này vẫn không hề thuyên giảm hay mai một. Vì nó là cảm xúc chung mà con người ai ai cũng có. Ai sống trên đời này mà không có một quê hương? Không có một người cha, người mẹ, bạn bè, người thân để thấu hiểu tác dụng của tình nhân ái?

    Giữa thời đại cái Ác đang lộng hành, lòng nhân ái căn bản chỉ còn tìm thấy trong các câu chuyện cổ tích, thì có lẽ nơi “xứ sở chiêm bao”, căn nhà của Chí Thiện đang ngự trị, phải chăng là “cái-quý-giá-nhất” trên thế gian này? Nó quý giá đến nỗi Bùi Giáng phải lặn lội trong sanh tử luân hồi từ ngàn xưa trở lại chỉ để trao tận tay cho chúng ta, phó thác cho chúng ta cùng nhau gìn giữ nó? Như là gìn giữ một “bảo bối” giữa sức tàn phá khôn kham của hư vô:

 

Đời xiêu đổ từ ngàn xưa anh trở lại

Giữa hư vô, em giữ nhé chừng này.

                                               – Bùi Giáng

 

“Chừng này” đó chính là “xứ sở chiêm bao”, vùng đất cấm bất khả xâm phạm đối với cái Ác. Vì nó, thật là xứng đáng cho chúng ta chờ đợi nuôi dưỡng thương yêu cả một đời. Tôi tự nghĩ, đối với Khánh Minh, người đã hiểu thấu được thế nào là “ngõ chiêm bao rộ sắc thời gian”, thì thời gian 40 năm cũng chỉ là một giấc mơ khác.

    Để có thể chờ đợi và gửi niềm tin yêu vào Chí Thiện trong suốt 40 năm giữa sự lộng hành của cái Ác, đòi hỏi một thái độ kiên nhẫn, không vội vàng, để sống trọn vẹn trong “phút mong manh giữa những từ” để chọn ra “đôi ba hạt lúa chín” như là những từ ngữ “hột chắc” thật chuẩn xác và có độ phổ quát cao để tỏa sáng một lần với lời của tình nhân:

 

…Sau vụ mùa

Tôi chỉ đem về nhà được đôi ba hạt lúa chín

Chút màu vàng của nó lấp lánh trên tay

Làm tôi đã vô cùng sung sướng…

Bài thơ hoàn tất, dù là một điểm hẹn quyến rũ,

Nhưng phút mong manh giữa những từ

Lại là lúc đóa hoa đang nở. Đang tỏa hương.

Tôi có gì đâu phải vội.

                    (Phút Mong Manh Giữa Những Từ – Ký Ức Của Bóng)

 

Chính vì không vội vàng, không bị quyến rũ bởi sự hoàn tất một tác phẩm, mà lời của Nguyễn Thị Khánh Minh lúc nào cũng như một “đoá hoa đang nở. Đang tỏa hương”. Hương vị Thi Ca và các cảm xúc được chuyên chở bằng ngôn ngữ Nguyễn Thị Khánh Minh trở thành các “cảm xúc đang là” trong lòng người đọc ngay trong phút này đây.

    Nói tóm lại, tính cẩn trọng, không vội vã để thẩm sát cho đến khi nào chạm đến cái nhìn thấu suốt các cảm xúc vi tế của tự thân và thái độ bình thản, kiên nhẫn, khiêm cung đối với cách chọn ngôn ngữ diễn đạt trọn vẹn nội dung các cảm xúc đó chính là yếu tố thành công của tác dụng “dị thường” trong ngôn ngữ ánh sáng Nguyễn Thị Khánh Minh. Điều này được độc giả tự cảm nhận trực tiếp trên các tác phẩm của Nguyễn Thị Khánh Minh.

 

Để kết thúc bài viết này, xin trân trọng kính mời quý độc giả cùng chậm rãi đọc tản văn thi Chiêm Bao Ánh Sáng.  Bài này được viết sau bài Bầy Lá Non Thở Dài Trong Đêm 40 năm. Cảm ơn thi sĩ về Ánh sáng Ngôn ngữ một lần trong “xứ sở chiêm bao”, qua đó con đường cổ tích đi đến xứ chiêm bao ấy được khơi mở ra cho những ai có tâm và có sự chuẩn bị trước để bước vào.

 

Bàn tay mộng vươn dài tôi không tới. Đường quanh co gặp nhau rồi lạ hoắc tuổi tên hỏi một câu nhập nhòa đi đến. Tôi lạ tôi quen thôi một lần tay bắt dẫu một thoáng phù du tan vào chiêm bao ánh sáng.

 

Hạt sương ngày nọ bờ cỏ bên nhau nhìn trăng đi mấy cõi thiết tha. Hạt nắng ngày mai mang hương thơm mặt trời chói lóa, ngày nghiêng vai rớt lá dặm dài. Lá thì thầm bốn mùa trao nhau biến hóa tử sinh. Như mơ. Một lần tôi ở lại.

 

Lời chào buổi sáng bung thêm ngày mới. Lời chúc bình an nhấn nút xanh chiều. Một món ăn vừa chín trên bếp ấm. Chữ cuối cùng một bài thơ vừa hoàn tất. Lời chúc ngủ ngon lộng lẫy giấc mơ dong buồm đi tới. Là lúc tôi biết mình đang ở trong giấc mộng rất đẹp của Hôm Nay.

 

Này người. Tôi đang du dương giấc mộng. Rồi một lúc nào đó thuận chiều sóng vỗ sóng tan, cơn mộng sẽ ngọt ngào vào biển rộng…

 

Bây giờ tôi mới hiểu vì sao câu trích của Hans Sachs, được Nguyễn Thị Khánh Minh chọn để mở đầu tập tản văn thi này: Tất cả cảm hứng thi ca đều chỉ là giải mã những giấc mơ (All poetic inspiration is but dream interpretation – Hans Sachs).

    Xin trân trọng giới thiệu với quý độc giả, Tản Văn Thi Nguyễn Thị Khánh Minh, như là Ánh sáng Ngôn ngữ một lần trong Xứ Sở Chiêm Bao.

 

– Tô Đăng Khoa, 03.2018

GHI CHÚ:

TẢN VĂN THI
Văn Học Press xuất bản, 5/2018

Tranh bìa: Chiều mưa dông tới @ Đinh Trường Chinh

Giá bán $15.00

Một tuyển thơ đẹp cả nội dung lẫn hình thức

Tìm mua trên Amazon. Xin bấm vào đường dẫn NÀY.




Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.