Sổ Tay Thường Dân Tưởng Năng Tiến: Giáo Sư Ở Tây Và Ở Ta
Tôi chưa bao giờ đi Tây, và cũng chưa bao giờ có ý phiêu lưu đến một nơi xa xôi, lôi thôi, thiếu vệ sinh và thiếu văn minh (tới) cỡ này:
“Người đi mua sắm ngay cả tại các trung tâm mua sắm lớn đều phải trả tiền đậu xe và phải tự trả tiền vào cái máy thật cao lớn gồ ghề. Thủ tục quá ư rườm rà, nhất là đối với những người không đọc được tiếng Pháp thì còn nhiêu khê gấp bội, chẳng hạn trong tiệm mua sắm áo quần, khách phải đi bỏ tiền vào một cái máy đặc biệt để đổi đồng Token rồi bỏ đồng này vào cánh cửa cầu tiêu để cửa mở khi khách cần sử dụng… người đi bộ thường phải cúi mặt xuống nhìn bước đi của mình trên bãi cỏ, trên đường tráng nhựa hoặc lát gạch để tránh giẫm lên những bãi cứt chó…” (Paris, 10 ngày thăm viếng – Nguyễn Văn Thành).
Chỉ nghe kể không cũng đủ ớn chè đậu. Hèn chi, khi đến Hà Nội (để tham dự Đại hội Việt kiều) giáo sư Trần Thanh Vân đã “khẳng định” với báo Dân Trí rằng:
“… người Việt Nam ở nước ngoài rất muốn trở về Việt Nam để làm việc. Tôi nói thật người Việt mình sống ở nước ngoài như Mỹ, Pháp cũng khổ lắm, đi làm việc cả ngày khi về phải nấu ăn, rửa chén bát, làm hết mọi việc trong gia đình. Tôi thấy sống ở Việt Nam rất hấp dẫn và sung sướng hơn nhiều ở nước ngoài. Các GS được xã hội rất tôn trọng, sinh viên kính phục ở nước ngoài không được như thế.”
Điều “khẳng định” này, tiếc thay, không được mọi “người Việt Nam ở nước ngoài” (tận tình) chia sẻ. Theo ông Hoàng Ngọc-Tuấn thì GSTS Trần Thanh Vân là một người “nịnh bợ” và nói năng … như một “con vẹt.”
Nịnh bợ, nghĩ cho cùng, cũng chỉ là một thái độ sống (thường thấy) ở đời. Không hiểu sao ông Hoàng Ngọc-Tuấn lại phản ứng (quá) gay gắt với giáo sư Trần Thanh Vân như thế, trên diễn đàn talawas:
“Đất nước Việt Nam hôm nay cần những nhà khoa học vừa có tài ba vừa có lòng dũng cảm như Andrei Sakharov, chứ không cần những nhà ‘trí thức’ giỏi nói nịnh theo nhà cầm quyền. Sự đàn áp tự do tư tưởng, đời sống văn hoá suy đồi, chất lượng giáo dục thảm hại, sự độc tài, tham nhũng và thối nát của chế độ chính trị ở Việt Nam sẽ còn kéo dài cho đến chừng nào tất cả các tiếng nói trí thức đều đồng thanh nói thật, và không còn một ai nói nịnh, nói hùa theo nó nữa.”
Quan điểm của ông Tuấn, xem ra, rất gần với ông Đỗ Thái Nhiên. Trước khi Đại hội Việt kiều khai mạc (cả tháng) tác giả này đã viết trên Thông Luận, vào ngày 19 tháng 1 năm 2009, rằng đây chỉ là một thứ đại hội “về hùa” thôi.
Như đã thưa: tôi chưa bao giờ đi Tây. Tưởng cũng phải nói luôn (cho rõ) là tôi cũng chưa bao giờ đi học. Và vì thế tôi không dám bàn cãi (hay tranh luận) với bất cứ ai về sự dị biệt trong sinh hoạt của quí vị giáo sư ở Tây, với ở ta. Vì tình cờ được biết vài vị giáo sư đã (có lúc) ở bên Tây, và cũng đã (có thời) trở lại và làm việc với chính quyền cách mạng Việt Nam (bên ta) nên tôi chỉ muốn ghi lại đôi dòng về cuộc sống (cũng như ý kiến của họ) cho rộng đường dư luận, thế thôi.
Trước hết, xin được đề cập giáo sư Trần Đức Thảo. Cuộc đời của ông (ở Tây cũng như ở ta) được tóm gọn như sau, bởi những người đồng thời:
“Dễ có đến hai năm tôi không đến khu tập thể Kim Liên. Lần này trở lại, tôi ngạc nhiên thấy cái quán của bà cụ móm dưới gốc xà cừ, mà mười năm trước tôi thường ghé hút thuốc uống nước, vẫn còn nguyên ở đó. Tôi vào quán uống chén rượu thay bữa ăn sáng. Bà cụ đang rôm rả nói chuyện với mấy anh xích lô, chắc là những khách quen…”
“Con cháu nhà tôi nó vừa sắm được cái ti vi màu nội địa. Tối hôm kia, bắt dây rợ xong, bật lên thấy đang chiếu cảnh tang lễ một ông tên là gì gì Thảo đó. Người ta giới thiệu cái ông Thảo này là nhà triết học nổi tiếng thế giới, làm đến sáu, bảy chức, chức nào cũng dài dài là, chắc là toàn chức to, được tặng Huân chương Độc lập hạng Hai. Ông ta sang tận bên Tây mà chết, cả Tây cả ta đều làm lễ truy điệu. Toàn cán bộ cấp cao, có danh giá đến dự.”
“Trong khu nhà B6 đằng kia cũng có một ông tên Thảo, nhưng lôi thôi nhếch nhác quá mấy anh công nhân móc cống. Mùa rét thì áo bông sù sụ, mùa nực thì bà ba nâu bạc phếch, quần ống cao ống thấp, chân dép cao su đứt quai, đầu mũ lá sùm sụp, cưỡi cái xe đạp ‘Pơ-giô con vịt’ mà mấy bà đồng nát cũng chê. Thật đúng như anh hề làm xiếc! Mặt cứ vác lên trời, đạp xe thỉnh thoảng lại tủm tỉm cười một mình, một anh dở người…”
“Một buổi trưa nắng chang chang, ông ghé vào quán uống cốc nước chè xanh, tôi hỏi: “Ông đi đâu về mà nom vất vả thế.. ế.. ế. Ông nói: Lên chợ Hàng Bè mua củi đun. Tôi hỏi: Thế củi ông để đâu cả rồi" Ông quay lại nhìn cái ‘pooc ba ga’, mặt cứ ngẩn tò te. Chỉ còn có sợi dây buộc! Củi nả rơi đâu hết dọc đường, chẳng còn lấy một que… Nghĩ cũng tội, già ngần ấy tuổi đầu mà phải nấu lấy ăn, không vợ, không con… Đấy, cũng là Thảo cả đấy, mà Thảo này thì sống cơ cực trần ai – bà cụ chép miệng thương cảm: Một vài năm nay không thấy ông đạp xe ngang qua đây, dễ chết rồi cũng nên…”