Hôm nay,  

Sổ Tay Thường Dân Tưởng Năng Tiến: Giáo Sư Ở Tây Và Ở Ta

05/12/200900:00:00(Xem: 5202)

Sổ Tay Thường Dân Tưởng Năng Tiến: Giáo Sư Ở Tây Và Ở Ta

Tôi chưa bao giờ đi Tây, và cũng chưa bao giờ có ý phiêu lưu đến một nơi xa xôi, lôi thôi, thiếu vệ sinh và thiếu văn minh (tới) cỡ này:
“Người đi mua sắm ngay cả tại các trung tâm mua sắm lớn đều phải trả tiền đậu xe và phải tự trả tiền vào cái máy thật cao lớn gồ ghề. Thủ tục quá ư rườm rà, nhất là đối với những người không đọc được tiếng Pháp thì còn nhiêu khê gấp bội, chẳng hạn trong tiệm mua sắm áo quần, khách phải đi bỏ tiền vào một cái máy đặc biệt để đổi đồng Token rồi bỏ đồng này vào cánh cửa cầu tiêu để cửa mở khi khách cần sử dụng… người đi bộ thường phải cúi mặt xuống nhìn bước đi của mình trên bãi cỏ, trên đường tráng nhựa hoặc lát gạch để tránh giẫm lên những bãi cứt chó…” (Paris, 10 ngày thăm viếng – Nguyễn Văn Thành).
Chỉ nghe kể không cũng đủ ớn chè đậu. Hèn chi, khi đến Hà Nội (để tham dự  Đại hội Việt kiều) giáo sư Trần Thanh Vân đã “khẳng định” với báo Dân Trí rằng:
“… người Việt Nam ở nước ngoài rất muốn trở về Việt Nam để làm việc. Tôi nói thật người Việt mình sống ở nước ngoài như Mỹ, Pháp cũng khổ lắm, đi làm việc cả ngày khi về phải nấu ăn, rửa chén bát, làm hết mọi việc trong gia đình. Tôi thấy sống ở Việt Nam rất hấp dẫn và sung sướng hơn nhiều ở nước ngoài. Các GS được xã hội rất tôn trọng, sinh viên kính phục ở nước ngoài không được như thế.”
Điều “khẳng định” này, tiếc thay, không được mọi “người Việt Nam ở nước ngoài” (tận tình) chia sẻ. Theo ông Hoàng Ngọc-Tuấn thì GSTS Trần Thanh Vân là một người “nịnh bợ” và nói năng … như một “con vẹt.”
Nịnh bợ, nghĩ cho cùng, cũng chỉ là một thái độ sống (thường thấy) ở đời. Không hiểu sao ông Hoàng Ngọc-Tuấn lại phản ứng (quá) gay gắt với giáo sư Trần Thanh Vân như thế, trên diễn đàn talawas:
“Đất nước Việt Nam hôm nay cần những nhà khoa học vừa có tài ba vừa có lòng dũng cảm như Andrei Sakharov, chứ không cần những nhà ‘trí thức’ giỏi nói nịnh theo nhà cầm quyền. Sự đàn áp tự do tư tưởng, đời sống văn hoá suy đồi, chất lượng giáo dục thảm hại, sự độc tài, tham nhũng và thối nát của chế độ chính trị ở Việt Nam sẽ còn kéo dài cho đến chừng nào tất cả các tiếng nói trí thức đều đồng thanh nói thật, và không còn một ai nói nịnh, nói hùa theo nó nữa.”
Quan điểm của ông Tuấn, xem ra, rất gần với ông Đỗ Thái Nhiên. Trước khi Đại hội Việt kiều khai mạc (cả  tháng) tác giả này đã viết trên Thông Luận, vào ngày 19 tháng 1 năm 2009, rằng đây chỉ là một thứ đại hội “về hùa” thôi.
Như đã thưa:  tôi chưa bao giờ đi Tây. Tưởng cũng phải nói luôn (cho rõ) là tôi cũng chưa bao giờ đi học. Và vì thế tôi  không dám bàn cãi (hay tranh luận) với bất cứ ai về sự dị biệt trong sinh hoạt của quí vị giáo sư ở Tây, với ở ta. Vì tình cờ được biết vài vị giáo sư đã (có lúc) ở bên Tây, và cũng đã (có thời) trở lại và làm việc với chính quyền cách mạng Việt Nam (bên ta) nên tôi chỉ muốn ghi lại đôi dòng về cuộc sống (cũng như ý kiến của họ) cho rộng đường dư luận, thế thôi.
Trước hết, xin được đề cập giáo sư Trần Đức Thảo. Cuộc đời của ông (ở Tây cũng như ở ta) được tóm gọn như sau, bởi những người đồng thời:
“Dễ có đến hai năm tôi không đến khu tập thể Kim Liên. Lần này trở lại, tôi ngạc nhiên thấy cái quán của bà cụ móm dưới gốc xà cừ, mà mười năm trước tôi thường ghé hút thuốc uống nước, vẫn còn nguyên ở đó. Tôi vào quán uống chén rượu thay bữa ăn sáng. Bà cụ đang rôm rả nói chuyện với mấy anh xích lô, chắc là những khách quen…”
“Con cháu nhà tôi nó vừa sắm được cái ti vi màu nội địa. Tối hôm kia, bắt dây rợ xong, bật lên thấy đang chiếu cảnh tang lễ một ông tên là gì gì Thảo đó. Người ta giới thiệu cái ông Thảo này là nhà triết học nổi tiếng thế giới, làm đến sáu, bảy chức, chức nào cũng dài dài là, chắc là toàn chức to, được tặng Huân chương Độc lập hạng Hai. Ông ta sang tận bên Tây mà chết, cả Tây cả ta đều làm lễ truy điệu. Toàn cán bộ cấp cao, có danh giá đến dự.”
“Trong khu nhà B6 đằng kia cũng có một ông tên Thảo, nhưng lôi thôi nhếch nhác quá mấy anh công nhân móc cống. Mùa rét thì áo bông sù sụ, mùa nực thì bà ba nâu bạc phếch, quần ống cao ống thấp, chân dép cao su đứt quai, đầu mũ lá sùm sụp, cưỡi cái xe đạp ‘Pơ-giô con vịt’ mà mấy bà đồng nát cũng chê. Thật đúng như anh hề làm xiếc! Mặt cứ vác lên trời, đạp xe thỉnh thoảng lại tủm tỉm cười một mình, một anh dở người…”
“Một buổi trưa nắng chang chang, ông ghé vào quán uống cốc nước chè xanh, tôi hỏi: “Ông đi đâu về mà nom vất vả thế.. ế.. ế. Ông nói: Lên chợ Hàng Bè mua củi đun. Tôi hỏi: Thế củi ông để đâu cả rồi" Ông quay lại nhìn cái ‘pooc ba ga’, mặt cứ ngẩn tò te. Chỉ còn có sợi dây buộc! Củi nả rơi đâu hết dọc đường, chẳng còn lấy một que… Nghĩ cũng tội, già ngần ấy tuổi đầu mà phải nấu lấy ăn, không vợ, không con… Đấy, cũng là Thảo cả đấy, mà Thảo này thì sống cơ cực trần ai – bà cụ chép miệng thương cảm: Một vài năm nay không thấy ông đạp xe ngang qua đây, dễ chết rồi cũng nên…”


“Tôi uống cạn chén rượu, cười góp chuyện: ‘Cái ông Thảo mà bà kể đó chính là cái ông Thảo người ta chiếu tang lễ trên ti-vi…’. Bà già bĩu môi: ‘Ông đừng cho tôi già cả mà nói lỡm tôi!” [Phùng Quán –  Chuyện vui về triết gia Trần Đức Thảo (Việt Nam Thư Quán)].
Cuộc sống của giáo sư Thảo (xem chừng) không được “vui” gì mấy –  nếu xét riêng về mặt cơm áo, hay củi gạo. Tuy nhiên, đối với nhiều vị trí thức thì đây không phải là điều mà họ quan tâm. Tiến sĩ Trần Thanh Vân, qua cuộc phỏng vấn thượng dẫn, rõ ràng là một người không quan tâm nhiều (lắm) về phương diện vật chất. Ông nhấn mạnh đến sự tôn trọng của xã hội và kính phục của sinh viên, đối với các giáo sư. Và cứ theo như nguyên văn lời ông thì “ở nước ngoài không được như thế.”
Thời gian mà giáo sư Trần Thanh Vân (thỉnh thoảng) về Việt Nam để nhận bằng khen hay dự đại hội, xem ra, không được dài cho lắm. Ít nhất thì nó cũng ngắn hơn thời gian, cũng như kinh nghiệm, của vài vị giáo sư khác về vấn đề này. Xin đơn cử một:
“Đạo đức không còn được dậy trong trường, và thời buổi này  người ta dậy trẻ nhỏ nhục mạ thầy cô… Trong các đại học, trong các phân khoa, trong mỗi lớp, trong mỗi buổi học, suốt cả năm, trong đám sinh viên luôn có những tay làm do thám…”
“Tôi biết, trong những trí thức tôi là người đang nằm trong tầm ngắm và đang bị công an theo dõi. Tôi biết có vài ‘con chó săn’ đang ở những căn phòng cạnh nhà tôi để có thể để mắt xem ai là những người hay xem chừng thư tín của tôi, nghe ngóng những câu chuyện hay tìm hiểu đài phát thanh nào mà tôi hay thích mở nghe…”
“ Tôi không ngạc nhiên khi thấy một học trò đang chuẩn bị cho cái chết của thầy cũ của mình và thuyết phục những kẻ đấu bò ra cú đòn chí mạng” [Nguyễn Mạnh Tường, Un Excommunié – Hanoi 1954-1991: Procès d’un intellectuel. Trans Nguyễn Quốc Vĩ –  Kẻ Bị Mất Phép Thông Công
Hà Nội 1954-1991: Bản án cho một trí thức (Thông Luận Online)].
Ủa, chớ giáo sư Nguyễn Mạnh Tường (lỡ) làm gì mà bị “đì” dữ vậy cà" Câu trả lời cũng tìm được (ngay) trong cuốn tự truyện thượng dẫn: ”Tôi chỉ đơn giản đòi hỏi quyền tự do tư tưởng và chỉ với thế thôi đã trở thành kẻ phản bội, kẻ thù của chủ nghĩa cộng sản.”
Bỉ nhất thời dã. Thử nhất thời dã.
Hồi đó là một thời. Bây giờ là một thời (đã) khác. Cộng sản Việt Nam không còn muốn “đào tận gốc, trốc tận rễ” bất cứ thành phần nào nữa. Không những thế, họ còn chủ trương “trọng dụng nhân tài, phát huy sự đóng góp của trí thức kiều bào vào công cuộc phát triển đất  nước – như đã ghi rõ trong  Nghị quyết 36:
“Hoàn chỉnh và xây dựng mới hệ thống chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, phát huy sự đóng góp của trí thức kiều bào vào công cuộc phát triển đất nước. Xây dựng chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với những chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài có trình độ chuyên môn cao, có khả năng tư vấn về quản lý, điều hành, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật cao cho đất nước, góp phần phát triển nền văn hóa, nghệ thuật của nước nhà.”
Bản N.Q này được ký vào ngày 26 tháng 3 năm 2004. Theo nhận xét của giáo sư Nguyễn Đăng Hưng “… từ khi nghị quyết này được ban hành, có nhiều con tim đã vui trở lại!”
Và mỗi con tim biểu lộ niềm vui theo một cách khác nhau. Giáo sư Vũ Đức Vượng tuyên bố: “Nhiều người than phiền, khó chịu về thủ tục hải quan và những cử chỉ thiếu thân thiện ở sân bay. Nhưng họ quên mất một điều rằng chẳng có sân bay nào lại đông vui người thân ra đón như mỗi khi họ trở về VN.”
Còn với giáo sư  Nguyễn Trí Dũng thì “đó là tâm trạng nao nao, xúc động khi được dạo bước một sớm thu trên quảng trường Ba Đình và lắng nghe bản quốc ca trầm hùng vang lên.”
Thiệt là… quá đã!
Để đáp ứng lại tình cảm của quí vị giáo sư này, Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn (trong một cuộc nói chuyện với phóng viên báo Tiền Phong, vào hôm 7 tháng 6 năm 2009) cho biết thêm là sẽ có nhiều “khởi sắc” và “đột phá” trong chính sách đãi ngộ Việt kiều.
Thiên hạ đều đã có dịp thấy sự “khởi sắc” và nghe tiếng “đột phá” của chính sách đãi ngộ Việt kiều qua tiếng “hú còi mở đường của xe cảnh sát” khi đưa phái đoàn đi về Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình (vào hôm 21 tháng 11 năm 2009) theo như lời mô tả của giáo sư Nguyễn Hữu Liêm. Tôi trộm nghĩ thêm, rất có thể, chính tiếng “hú còi mở đường” vào ngày hôm đó đã mang lại “nỗi bình an giữa Đại hội Việt kiều.”
Tâm cảm của quí vị giáo sư, như vừa dẫn, quả có khác với thường dân – như hai  ông Hoàng Ngọc-Tuấn và Đỗ Thái Nhiên. Theo thiển ý, chúng ta nên tôn trọng sự khác biệt. Về hùa hay về nguồn, như đã thưa, đều chỉ là những thái độ sống (thường thấy) ở đời thôi. Giữa nam nhi (chi khí) với nhau, nặng lời làm chi, cho má nó… khi!
Tưởng Năng Tiến
(Bài do tác giả gửi)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đảng CSVN hay nói “Trí thức là “nguyên khí của quốc gia”, làm hưng thịnh đất nước, rạng rỡ dân tộc*; “Trí thức là vốn liếng quý báu của Dân tộc”; hay “Thanh niên là rường cột của nước nhà” , nhưng tại sao nhiều người vẫn ngại đứng vào hàng ngũ đảng? Lý do vì đảng chỉ muốn gom Trí thức và Thanh niên “vào chung một rọ để nắm tóc”...
Tây Bắc hay Tây Nguyên thì cũng chừng đó vấn đề thôi: đất đai, tôn giáo, chủng tộc… Cả ba đều bị nhũng nhiễu, lũng đoạn tới cùng, và bị áp chế dã man tàn bạo. Ở đâu giới quan chức cũng đều được dung dưỡng, bao che để tiếp tục lộng quyền (thay vì xét sử) nên bi kịch của Tây Nguyên (nói riêng) và Cao Nguyên (nói chung) e sẽ còn dài, nếu chế độ toàn trị hiện hành vẫn còn tồn tại...
Bữa rồi, nhà thơ Inra Sara tâm sự: “Non 30 năm sống đất Sài Gòn, tôi gặp vô số người được cho là thành công, thuộc nhiều ngành nghề, đủ lứa tuổi, thành phần. Lạ, nhìn sâu vào mắt họ, cứ ẩn hiện sự bất an, lo âu.” “Bất an” có lẽ không chỉ là tâm trạng của người Sài Gòn mà dường như là tâm cảm chung của toàn dân Việt – không phân biệt chủng tộc, giới tính hay giai cấp nào ráo trọi – nhất là những kẻ sắp từ giã cõi trần. Di Cảo của Chế Lan Viên và di bút (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của Nguyễn Khải, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, chỉ là những tác phẩm “cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).”
Tập Cận Bình tin rằng lịch sử đang dịch chuyển theo hướng có lợi cho mình. Trong chuyến thăm Vladimir Putin tại Matxcơva vào tháng 3 năm ngoái, nhà lãnh đạo Trung Quốc nói với Tổng thống Nga rằng “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Sau 20 năm chiêu dụ Kiều bào về giúp nước không thành công, đảng CSVN lại tung ta Dự án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” vào dịp Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024. Đây là lần thứ tư, từ khi có Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, một Quyết định nhằm mưu tìm đầu tư, hợp tác khoa học, kỹ thuật và tổ chức các Hội, Đoàn người Việt ở nước ngoài, đặt dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN được tung ra...
Khi số lượng di dân vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico tăng cao kỷ lục, câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại rơi vào tình trạng này, và Hoa Kỳ có thể học hỏi những gì từ cách các quốc gia khác ứng phó với các vấn đề an ninh biên giới và nhập cư. Chào đón công dân nước ngoài đến với đất nước của mình là một việc khá quan trọng để giúp cải thiện tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, nguồn cung ứng lao động và đa dạng văn hóa. Nhưng những di dân vào và ở lại Hoa Kỳ mà không có thị thực hoặc giấy tờ hợp lệ có thể gây ra nhiều vấn đề – cho chính bản thân họ và cho cả chính quyền địa phương bởi tình trạng quá tải không thể kịp thời giải quyết các trường hợp xin tị nạn tại tòa án nhập cư, hoặc cung cấp nơi ở tạm thời và các nhu cầu cơ bản khác. Mà tình trạng này hiện đang xảy ra ở rất nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
Tôi nghe nhiều người tỏ ý bi quan về hiện cảnh cũng như tương lai (đen tối) của Việt Nam. Dân tộc nào, số phận đó. Một đất nước có những người viết sử và làm luật (cỡ) như ông Dương Trung Quốc thì… đen là phải!
Việt Nam bước vào năm Giáp Thìn 2024 với gánh nặng tham nhũng và một đội ngũ “không nhỏ” cán bộ, đảng viên suy thoái đạo đức lối sống. Đó là cảnh báo của người đứng đầu đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng, trong cuộc phỏng vấn đầu năm của Thông Tấn Xã Việt Nam...
Từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Triết gia Mạnh Tử (372-289 BC) của Trung Hoa đã nói rằng, “Dân là quý, thứ đến đất nước, rồi tới vua.” Điều đáng nói là Mạnh Tử là người đi theo học thuyết của Nho Gia vốn chủ trương vua là con ông Trời (Thiên tử) được sai xuống nhân gian để trị quốc an dân, vậy mà cũng không thể phủ nhận vai trò quan trọng, nếu không muốn nói là tối quan trọng của người dân. Thời hiện đại, công pháp quốc tế đã nêu ba yếu tố chính hình thành một quốc gia: người dân, lãnh thổ và chính quyền. Trong đó, thật ra người dân chính là yếu tố then chốt quyết định. Lãnh thổ nếu không có dân ở, không có người quản trị thì không phải là đất nước của một dân tộc. Chính quyền từ người dân mà ra, bởi vì trước khi một người ra nắm quyền cai trị đất nước thì người đó phải là một người dân của đất nước ấy. Hơn nữa, sự thịnh suy của một quốc gia nằm trong tay người dân.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.