Hôm nay,  

Trận Thảm Sát Wounded Knee: Lời Xin Lỗi Sau 129 Năm

13/12/201909:52:00(Xem: 7540)

 

AFP_Nghia dia vu tham sat Wounded Knee
Hình chụp vào tháng 8 năm 2001 cho thấy những du khách đến thăm nơi chôn xác của người Mỹ Thổ Dân Lakota bị thảm sát vào ngày 29 tháng 12 năm 1890 bởi các binh sĩ Lục Quân Hoa Kỳ tại Wounded Knee thuộc tiểu bang South Dakota. Wounded Knee là một phần của Khu Định Cư Người Thổ Dân Pine Ridge tại Công Viên Badlands National Park. Khoảng 300 người bộ tộc Lakota đã được báo cáo bị giết trong vụ này. (Photo AFP/Getty Images)

 

Năm 1890, sau một chiến dịch ở Wounded Knee, 20 chiến binh Hoa Kỳ được tặng thưởng Huy Chương Danh Dự (Medal of Honor) vì đã “can đảm” thảm sát hàng trăm người bản xứ (chúng ta thường gọi là dân da đỏ) hầu hết là không vũ khí trong tay, và đa số là phụ nữ và trẻ em. Và bây giờ, trong năm 2019, tức là sau 129 năm, hai dự luật tại Thượng Viện và Hạ Viện Hoa Kỳ đưa ra cứu xét để sẽ tước bỏ 20 huy chương đó.

Hai Thượng nghị sĩ Dân Chủ dự định đưa ra một dự luật song hành với một dự luật Hạ Viện để tước bỏ các Huy Chương Danh Dự từ các chiến binh tham dự trận thảm sát gần dòng suối Wounded Knee năm 1890 tại khu tập trung Pine Ridge Indian Reservation ở tiểu bang South Dakota.

Thượng nghị sĩ Elizabeth Warren (tiểu bang Massachusetts) và TNS Jeff Merkley (tiểu bang Oregon) loan báo rằng họ sẽ bảo trợ dự luật Remove the Stain Act (Dự Luật Tẩy Xóa Vết Nhơ). Dự luật đầu tiên đưa ra ở Hạ Viện do các Dân Biểu Dân Chủ Denny Heck (tại Washington) và Deb Haaland (tại New Mexico) và DB Cộng Hòa Paul Cook (tại California).

Trong khi TNS Merkley nói rằng thảm sát những người vô tội không phải là anh hùng, Thượng nghị sĩ Cộng Hòa Mike Rounds (ở South Dakota) nói ông không hỗ trợ nỗ lực gỡ bỏ huy chương đó.

Quốc Hội Hoa Kỳ năm 1990 đã chính thức xin lỗi về trận thảm sát dân da đỏ trên.

Dù vậy, nỗi ám ảnh vẫn còn nơi hậu duệ ở cả hai phía thảm sát và bị thảm sát. Trong suốt 50 năm qua, Bradley Upton đã cầu nguyện xin tha lỗi vì ông bị ám ảnh gánh nặng quá khứ của trận thảm sát Wounded Knee, nơi ông cố của ông là James Forsyth chỉ huy Trung đoàn Kỵ binh số 7 trong ngày 29/12/1890 đã giết hơn 250 người không vũ khí thuộc sắc tộc Oglala Lakota – cả đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Upton bị mảng lịch sử gia đình ám ảnh từ khi còn vị thành niên.

Trong tháng 11/2019, Upton, 67 tuổi, đã có một cơ hội bày tỏ ân hận và chính thức xin lỗi về trận thảm sát do ông cố chỉ huy trước các hậu duệ trực tiếp của các nạn nhân tại khu tập trung của họ ở Cheyenne River Reservation tại South Dakota.

Upton trong khi trả lời thông tấn Reuters qua điện thoại đã khóc và nói: “Đáp ứng [từ họ] không tin nổi… rất tích cực và rất cảm động. Thương yêu là cảm xúc thiêng liêng, và tha thứ cũng rất là thiêng liêng.”

Upton là một nhạc sĩ chuyên nghiệp, đã làm chuyến đi xa 9 tiếng đồng hồ từ nhà ông tới khu tập trung, nói rằng sắc tộc Lakota là “một dân tộc phi thường. Họ rất khôn ngoan và xinh đẹp.”

Emanuel Red Bear, một nhà giáo và là người tư vấn tâm linh, nói với hậu duệ các nạn nhân trong nghi lễ xin lỗi tại khu tập trung rằng họ xứng đáng nhận lời xin lỗi của Upton: “Chỉ một người có đủ lương tâm tới đây và xin tha lỗi về những gì mà ông cố đã làm ra. Cần có nhiều hơn nữa.”

Chuyến đi xin lỗi của Upton khởi sự khi em của ông  cố đưa cho xem các tấm ảnh về trận thảm sát khi Upton 16 tuổi.

Upton nói, “Tôi biết tức khắc là chuyện đó sai. Tôi cảm nhận nỗi buồn và nỗi xấu hổ sâu thẳm.”

Hai năm sau, Upton trở thành học trò của một Thiền sư Phật giáo. Bản tin Reuters không nói rõ vị Thiền sư này là ai. Upton nói, “Tôi đã cầu nguyện trong suốt 50 năm sau đó để xin tha lỗi và để hàn gắn chữa lành cho mọi người liên hệ, nhưng đặc biệt vì tiền nhân gia tộc tôi dã gay ra thảm sát, tôi cảm thấy nặng nề vô kể.”

Upton tin luật nhân quả, và nghĩ rằng hậu quả trận thảm sát có thể nhìn thấy xuyên qua những người trong gia tộc đầy những nghiện rượu, lạm dụng và phản bội.

_3 Crazy_Horse_from Wikipedia
Lãnh tụ Crazy Horse có quả tim chôn gần Wounded Knee.


Một năm sau đó, một người bạn của một hàng xóm giúp Upton liên  lạc với Basil Brave Heart, một trưởng lão bộ tộc Lakota. Brave Heart đã làm các nghi lễ hàn gắn và trợ giúp Upton trong năm kế tiếp.

Tự điển Wikipedia ghi rằng trận thảm sát Wounded Knee xảy ra ngày 29/12/1890, gần suối Wounded Knee, trên vùng đất dành riêng cho người Da Đỏ Lakota Pine Ridge ở bang South Dakota.

Ngày trước đó, một biệt đội của Trung đoàn 7 Kỵ binh Mỹ dưới sự chỉ huy của Thiếu tá Samuel M. Whitside đã chặn nhóm Spotted Elk của Miniconjou Lakota và 38 Hunkpapa Lakota gần Porcupine Butte Elk và hộ tống họ 5 dặm (8,0 km) về phía tây tới rạch Wounded Knee, nơi họ cắm trại. Phần còn lại của Kỵ đoàn 7, dưới sự chỉ huy của Đại tá James W. Forsyth, đã đến và bao quanh trại giam. Trung đoàn được hỗ trợ bởi một cụm pháo bốn sơn pháo Hotchkiss.

Vào sáng ngày 29/12, các đội quân đã đi vào trại để giải giới Lakota. Một phiên bản ghi chép khác về sự kiện tuyên bố rằng trong quá trình giải giáp các Lakota, một người trong bộ lạc bị điếc có tên là Coyote Đen là miễn cưỡng từ bỏ súng, tuyên bố ông đã phải trả rất nhiều tiền cho nó. Một vụ ẩu đả về khẩu súng trường leo thang, và súng đã nổ khiến cho Trung đoàn kỵ binh 7 nổ súng loạn xạ từ mọi phía, giết chết những người đàn ông, phụ nữ và trẻ em, cũng như một số đồng đội của họ. Một số chiến binh Lakota còn giữ vũ khí bắt đầu bắn trả lại các binh sĩ tấn công, nhưng Trung đoàn Kỵ binh 7 đã nhanh chóng đè bẹp bộ tộc Lakota. Những người Lakota còn sống sót chạy trốn, nhưng kỵ binh rượt theo và giết nhiều người không vũ khí.



Tại thời điểm vụ đụng độ kết thúc, hơn 200 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em của Lakota đã bị giết và 51 người bị thương (4 người đàn ông và 47 phụ nữ và trẻ em, một số người trong số họ đã chết sau đó); một con số ước tính đưa ra con số người chết lên đến 300. Hai mươi lăm lính Mỹ chết, và 39 người bị thương (6 người bị thương sau đó đã chết). Có ít nhất hai mươi binh sĩ đã được trao tặng Huy chương Danh dự. Năm 2001, Đại hội toàn quốc của người Mỹ bản địa đã thông qua hai nghị quyết lên án các giải thưởng và kêu gọi chính phủ Mỹ huỷ bỏ chúng. Chiến trường Wounded Knee đã được đưa vào danh mục danh lam lịch sử quốc gia.

_1 ca nhac si Buffy_Ste._Marie_from Wikipedia
Ca nhạc sĩ Buffy Sainte-Marie.

 

Năm 1990, nữ ca nhạc sĩ Buffy Sainte-Marie sáng tác ca khúc “Bury My Heart at Wounded Knee” (Hãy Chôn Trái Tim Tôi ở Wounded Knee) trong đó nêu lên các bạo hành đối với các sắc dân da đỏ do chính phủ liên bang Hoa Kỳ và các công ty lớn của Mỹ. Cô Buffy Sainte-Marie sinh năm 1941, trong khu tập trung dân da đỏ ở Qu'Appelle Valley, Saskatchewan, Canada. Cô bị ba mẹ bỏ rơi khi còn sơ sanh, được nhận về làm con nuôi trong gia đình Albert và Winifred Sainte-Marie thuộc bộ tộc Mi'kmaq tại Massachusetts, Hoa Kỳ. Năm 1983, Buffy Sainte-Marie trở thành người bản xứ đầu tiên thắng Giải Oscar với ca khúc "Up Where We Belong" viết cho phim “An Officer and a Gentleman.”

_2 book_Bury_My_Heart_at_Wounded_Knee_cover
Bìa sách “Bury My Heart at Wounded Knee” của Dee Brown.

Ca khúc “Bury My Heart at Wounded Knee” năm 1990 có đoạn điệp khúc viết:

“Hãy chôn trái tim tôi tại Wounded Knee

Sâu trong lòng đất

Hãy đắp lên tôi những lời nói dối tốt đẹp

Hãy chôn trái tim tôi tại Wounded Knee.”

.

Nhà văn Dee Brown đã ấn hành năm 1970 tác phẩm dày 487 trang, đề tài nghiên cứu sử học có tên “Bury My Heart at Wounded Knee: An Indian History of the American West” (Hãy Chôn Trái Tim Tôi Tại Wounded Knee: Một Lịch Sử Dân Da Đỏ vùng Tây Hoa Kỳ). Sách này kể chi tiết về các chính sách của chính phủ liên bang Hoa Kỳ đối với dân bản xứ, và các trận chiến nhằm vào các bộ tộc, các nỗ lực phá hoại văn hóa, tôn giáo và nếp sống dân bản xứ Mỹ.

Dee Brown cũng là nhà nghiên cứu thư viện cho cả Bộ Nông Nghiệp Mỹ và đại học University of Illinois tại Urbana–Champaign. Tác phẩm “Bury My Heart at Wounded Knee” được dịch ra 17 ngôn ngữ.

Dòng suối Wounded Knee cũng gần nơi ba mẹ của lãnh tụ da đỏ Crazy Horse chôn trái tim và một số xương người con này sau khi lãnh tụ này bị giết năm 1877. Crazy Horse là người chỉ huy dân da đỏ trong nhiều trận đánh chống lại quân đội liên bang Hoa Kỳ.

.

_4 Ban nhac Redbone
Bìa đĩa nhạc “The best of Redbone” với hình 4 nhạc sĩ Redbone.


Một ca khúc nổi tiếng của một ban nhạc cũng nói về trận thảm sát nêu trên. Ban nhạc Redbone gồm 4 nhạc sĩ đều là sắc dân da đỏ (Lolly Vegas, Pat Vegas, Tony Bellamy và Pete DePoe) phổ biến  ca khúc có tên "We Were All Wounded At Wounded Knee" (Tất Cả Chúng Ta Đều Bị Thương ở Wounded Knee) vào năm 1973, gợi lại trận thảm sát của Trung Đoàn 7 Kỵ Binh nhắm vào dân Sioux Indians năm 1890.

Nhạc sĩ Pat Vegas ghi lại rằng, “Công ty nhạc CBS/Epic không chịu ghi âm bản này, nên tự tôi ghi âm. Rồi họ cũng giúp tôi in ra 500 đĩa nhạc, và tôi xách các đĩa nhạc sang Châu Âu. Tôi phân phối cho các đài phát thanh ở Hòa Lan, và trước khi dân Mỹ biết tới, thì ca khúc này đã trở thành bản nhạc được ưa chuộng khắp Châu Âu. Nhưng họ cũng không chịu phổ biến ca khúc này ở Mỹ…”

Album có tên “The best of Redbone” (Các Ca Khúc Hay Nhất của Redbone) từ năm 1973 trở thành bán chạy hàng đầu ở Hòa Lan và nhiều nước Châu Âu. Lúc đó, dân Mỹ vẫn chưa được nghe ca khúc này. Bây giờ, bản nhạc đã được nhiều người đưa lên YouTube.

Lời ca khúc này như sau.

Tất cả chúng ta đều bị thương ở Wounded Knee - bạn và tôi

Tất cả chúng ta đều bị thương ở Wounded Knee - bạn và tôi

Nhân danh chủ thuyết Thiên mệnh Hoa Kỳ bành trướng

Bạn và tôi – bạn và tôi – bạn và tôi

.

Họ hứa rất nhiều nhưng luôn luôn bội hứa

Họ vây chúng ta vào chuồng như bò mộng, lùa chúng ta đi như  gia súc

Và cuối cùng trên khu tập trung

Nơi chúng ta tới để bảo tồn bộ tộc mình

Chúng ta đêu bị Trung Đoàn 7 Kỵ Binh xóa sạch

Bạn và tôi – bạn và tôi.

.

Tất cả chúng ta đều bị thương ở Wounded Knee - bạn và tôi

Tất cả chúng ta đều bị thương ở Wounded Knee - bạn và tôi

Nhân danh chủ thuyết Thiên mệnh Hoa Kỳ bành trướng

Bạn và tôi – bạn và tôi – bạn và tôi

.

Bây giờ chúng ta đưa ra lời hứa, chúng ta sẽ không bội hứa

Chúng ta sẽ hát, hát, hát lên chuyện của chúng ta cho tới khi sự thật được nghe

Có một thế hệ mới hoàn toàn

Những người can đảm ước mơ được tôn trọng

Những người không bị Trung Đoàn 7 Kỵ Binh xóa sạch

Bạn và tôi – bạn và tôi.

.

Tất cả chúng ta đều bị thương ở Wounded Knee - bạn và tôi

Tất cả chúng ta đều bị thương ở Wounded Knee - bạn và tôi

Tất cả chúng ta đều bị thương ở Wounded Knee…

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tháng Hai năm 1948, lãnh tụ cộng sản Klement Gottwald bước ra bao lơn tòa dinh thự xây từ thời Baroque thủ đô Praha để hiệu triệu hàng trăm nghìn công dân đứng chật ních dưới quảng trường Phố Cổ. Đó là khúc quành trọng đại của lịch sử xứ Bohemia. Tuyết rơi tầm tã, trời se sắt lạnh, và Gottwald để đầu trần. Cảm thấy trống trải Clementis ân cần lấy mũ mình đội lên đầu Gottwald. Cả Gottwald lẫn Clementis đều không biết trong suốt tám năm trời Franz Kafka mỗi ngày đã trèo lên chính những bậc cấp họ vừa lên để bước ra cái bao lơn lịch sử, bởi dưới thời đế quốc Áo-Hung tòa dinh thự là một trường học Đức. Họ cũng không biết ở ngay tầng dưới chính tòa nhà, cha của Franz, Hermann Kafka, có mở một cái tiệm trên bảng hiệu vẽ hình con quạ ngay bên cạnh tên ông, kafka tiếng Tiệp có nghĩa là quạ. Gottwald, Clementis, và tất cả những kẻ khác chẳng ai biết Kafka từng hiện hữu, nhưng Kafka biết rõ sự ngu dốt của họ. Trong tiểu thuyết của ông, Praha là một thành phố không có ký ức, thậm chí không ai nhớ
Kinh Vu Lan kể rằng ngài Mục Kiền Liên [Maudgalyayana] -- một trong mười vị đại đệ tử của Đức Phật và cũng là người có thần thông cao diệu nhất trong những đệ tử của Đức Phật – sau khi chứng được lục thông đã sử dụng thần thông để tìm cha mẹ đã quá vãng của ngài. Cuối cùng ngài Mục Kiền Liên đã thấy mẹ ngài là bà Moggalī [thường gọi là Thanh Đề] sinh trong loài quỷ đói nơi địa ngục. Ngài bèn mang cơm vào địa ngục cho mẹ ăn. Nhưng khi bà cầm chén cơm lên để ăn thi chén cơm bốc thành ngọn lửa cháy do vì lửa xan tham của bà nổi lên. Ngài Mục Kiên Liên thấy vậy rất đau lòng và đã đến trình lại với Đức Phật về sự việc này để mong Đức Phật dạy cho cách giải cứu mẹ của ngài. Nhân đó Đức Phật đã nói Kinh Vu Lan. Nội dung Kinh Vu Lan tương tự như Kinh Petavatthu Số 14 (Ngạ Qủy Sự Kinh) trong Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) của Kinh Tạng tiếng Pali. Kinh này kể chuyện về mẹ của ngài Xá Lợi Phất (Sariputta) là vị đệ tử trí tuệ đệ nhất của Đức Phật. Kinh mô tả cách ngài Xá Lợi Phất cứu mẹ
Trong cái nắng oi bức của trời cuối tháng Tám, các con em ở Mỹ lại bắt đầu ngày tựu trường. Nhìn cha mẹ dẫn con nhỏ mỗi buổi sáng đón xe bus màu vàng cam để đi đến trường, lòng tôi lại nao nao nhớ lại ngày khai giảng hằng năm ở quê nhà.
Có phải trong thời đại dịch bạn hay có những giấc mộng bất thường? Không phải chỉ một mình bạn đâu mà nhiều người cũng có những giấc mơ lạ giống như bạn, theo ký giả Gowri S của báo The Hindu cho biết trong bài báo được đăng trên trang mạng của báo này hôm 16 tháng 6 năm 2020. Trong bài phóng sự, Gowri đã đi tìm hiểu nhiều người và họ đều nói rằng họ thường xuyên nằm chiêm bao kỳ lạ vì đại dịch luôn luôn khống chế cuộc sống của chúng ta. Căng thẳng ban ngày sẽ không tránh khỏi nằm mộng ban đêm trong hình thái những giấc mơ rời rạc và dài hơn bình thường, có lúc thì rõ ràng chi tiết có khi thì mơ hồ. Có người mơ thấy rửa tay bằng xà phòng. Có người mơ thấy bị thú rừng tấn công. Có người thấy gặp người thân đã chết từ lâu. Trên cơ bản, những giấc mơ có tính riêng tư và tùy thuộc vào những gì con người nhớ. Để hiểu rõ hơn về giấc mơ, chúng ta cần hiều các chu kỳ của giấc ngủ. “Chúng ta có nhiều giai đoạn khác nhau của giấc ngủ: ngủ mà mắt không chuyển động nhanh (Non-REM)
Chúng ta đang trong mùa Lễ Vu Lan Báo Hiếu. Truyền thống Phật Giáo Việt Nam đón Lễ Vu Lan sẽ là ngày rằm tháng 7 âm lịch, tính theo dương lịch là ngày 2 tháng 9/2020, tức là khoảng hai tuần nữa. Lễ này xuất phát từ sự tích ngài Mục Kiền Liên, vị môn đồ Đệ nhất thần thông của Đức Phật Thích Ca, nhìn thấy mẹ của ngài thọ khổ dưới địa ngục, nên ngài đã xin Đức Phật chỉ phương pháp cứu mẹ ra khỏi kiếp quỷ đói. Tại Việt Nam, Phật tử đón Lễ Vu Lan Báo Hiếu thường là trọn tháng ăn chay, tụng kinh, làm từ thiện để hồi hướng công đức cho cha mẹ. Mẹ già như chuối ba hương, như xôi nếp một như đường mía lau... Hình ảnh người mẹ luôn luôn là nguồn cảm hứng thi ca. Lòng mẹ nhìn từ các nhà thơ Châu Á sẽ là chủ đề của bài này. Nhà thơ NHẬT BẢN Jūkichi Yagi (1898-1927) là nhà thơ, nhà văn, nhà giáo. Năm 1925, ông xuất bản thi tập đầu tiên, nhan đề “Autumn's Eye” (Mắt Mùa Thu). Ông gia nhập một nhóm các nhà thơ tại Tokyo, và thơ ông xuất hiện trên nhiều tạp chí văn học. Năm 1926, ông bệnh lao phổi
Ngoài kia nắng chiều vừa xuống. Trước khi nói lời từ giả với cha mình, vị chân tu đưa bằng hai tay cho cha chuỗi tràng hạt, và vị chân tu nghẹn ngào: thưa ba giử lấy chuỗi tràng hạt này, để khi nào ba có băn khoăn điều gì, một cơ duyên gì, xin ba cứ lần tràng hạt tinh thần ba có đủ tĩnh thức, và tâm hồn ba sẽ binh an. Anh đưa tay nhận chỗi tràng hạt, cả hai cho con nhìn nhau trong suốt chiều sâu của tâm thức...
Năm năm sau, vào năm 1844, ông đăng bản dịch tiếng Anh một phẩm của Kinh Pháp Hoa. Đây là bản kinh Phật Giáo Đại Thừa đầu tiên xuất hiện trong Anh ngữ. Đặc biệt, bản dịch được xem là Phẩm Thứ Năm của Kinh Pháp Hoa. Phẩm này được dịch sang Hán văn là “Phẩm Dược Thảo Dụ” và trong tiếng Anh nó chỉ được dịch đơn giản là “Plants” [Cây Cỏ]. Phẩm Thứ Năm trong Kinh Pháp Hoa so sánh lời dạy của Đức Phật với cơn mưa rải xuống khắp mọi nơi và so sánh thính chúng của Đức Phật với các hạng thảo mộc lớn, trung bình và nhỏ. Ở đây Thoreau đã tìm thấy giáo lý tôn giáo đã được phô diễn qua việc mô tả về cây và cỏ. Thoreau đã dành 2 năm sau đó để sống độc cư trong rừng hoang cạnh Hồ Walden Pond tại thành phố Concord thuộc tiểu bang Massachusetts. Ở đó ông đã thực hành việc chiêm nghiệm thiên nhiên về điều mà ông đã đọc trong các sách về tôn giáo Ấn Độ -- đặc biệt Kinh Pháp Hoa nơi dạy con người ngồi trong rừng để chiêm nghiệm thực tại. Sự miêu tả của ông về thời gian ông sống nơi hoang vu, được phổ biến