Hôm nay,  

Mùi Tết...

1/29/202214:11:00(View: 3018)

Tản văn

 

hoa dao

1.

 

Có xa quê hương đất nước nhiều năm, mỗi khi Tết đến Xuân về, người ta mới cảm nhận không khí chung quanh mình như thiếu thiếu một cái gì rất quan trọng? Không phải vì đất lạ, người không quen biết, không cùng chủng tộc. Cũng không phải vì những đồ ăn, thức uống khi mua về thiếu đi cái hương vị đất nước của quê hương bản quán mà có lẻ chỉ vì... cái không khí chung quanh mình nó khác biệt và cả cái mùi vị của mùa xuân cũng nhiều lạ lẫm.

Đêm trằn trọc, nhớ mông lung và mũi chợt nhận ra mùi hương thân thuộc, gắn bó từ lúc ấu thơ cho đến khi trưởng thành mà chỉ mỗi năm mới có một lần. Cái mùi gì nhỉ? Đâu phải mùi hơi của con cái, vợ chồng đã quá quen thuộc trong căn nhà ta ở theo kiểu “Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi”, mà đó là cái mùi vị nôn nao, mong ngóng, chờ đợi, man mác một nỗi gì khó tả. Là mùi khói ấm cúng, nồng thơm, của củi, của pháo, của trầm nhang phảng phất, của hương hoa, trà quả và cả của tiền mới và áo mới. Thôi cứ tạm gọi là cái “mùi Tết” cho dân dã mộc mạc mà quyến luyến đến lạ thường!

 

2.

 

Chợt mỉm cười, lẩn thẩn tự hỏi mình: Tết là gì nhỉ? Lại tra cứu từ điển, sách vở với nhiều định nghĩa, khái niệm khác nhau, song có thể hiểu nôm na: Tết là một phong tục, một mỹ tục đã có từ ngàn đời nay của người Việt. Đó là dịp để mọi người, mọi gia đình sum họp, vui vầy cùng nhau, tổ chức ăn uống, hội hè. Dâng cúng đất trời, Thần Phật, tưởng nhớ tổ tiên, ông bà và những người đã khuất, v.v... “Tết” nguyên là từ có âm Hán Việt là “tiết”, chỉ thời tiết, khí hậu bắt đầu trong một năm, thêm chữ “Đán” chỉ “ngày” khởi đầu của tháng đầu tiên theo Âm lịch, tức ngày mùng 1 tháng Giêng hằng năm.

 

Theo quan niệm của người Việt, để chuẩn bị cho “ba ngày Tết”, và để “vui như Tết”, mọi người cần phải chuẩn bị thật chu đáo cho Tết, bắt đầu từ lúc 23 tháng Chạp, tức ngày đưa ông Táo về trời, việc sửa soạn, mua sắm, trang trí nhà cửa cho thật mới và tươm tất, cũng như đi thăm và rẫy cỏ những phần mộ của người thân, chuẩn bị cho lễ cúng rước ông bà vào ngày 30 tháng Chạp. Đó là lúc không khí sôi động và chộn rộn ở khắp mọi nơi mà con người có thể cảm nhận được. Chuyện sắm sửa cho con cái những bộ đồ mới để mặc vào ngày đầu năm, cũng là nỗi lo “ngay ngáy” thường trực của những gia đình đông con, kinh tế khó khăn. Từ làng xóm, tới chợ búa, ngày thêm sôi động. Trên trán, trong đôi mắt của mọi người ánh lên niềm vui, mong đợi đó là lúc mùa màng tươi tốt, thuận hòa, được mùa, kinh tế xã hội phát triển. Khi những nét nhăn hằn lên trên trán, đôi mắt tư lự, ưu tư đó là lúc... thất bát, mùa màng hạn chế. Kinh tế xã hội khó khăn... Có người nói, cứ nhìn không khí chuẩn bị đón Tết vui Xuân của mọi người là có thể biết được đất nước đang phát triển tốt hay kinh tế khủng hoảng, trì trệ. Quả thật không sai?

 

Nếu những bậc cha mẹ, người lớn đang tất bật lo lắng cho từng cái ăn, cái mặc: Nhà cửa tươm tất, mua sắm áo quần mới, lo nồi bánh chưng, bánh tét, nồi thịt kho... thì những đứa trẻ từ vài ba tuổi cho đến mười chín, đôi mươi vẫn ngong ngóng, háo hức đếm từng ngày để chờ... Tết. Đúng với câu ca dao: “Cu kêu ba tiếng cu kêu/ Cho mau đến Tết dựng nêu ăn chè!” Trẻ con vẫn khoái ăn chè nhưng...

 

Nhớ thuở bé, lớp người thuộc U.60, U.70 chúng tôi mong chờ Tết, mong cho mau đến Tết là để được vui chơi thỏa thích trong mấy ngày Tết mà không bị cha mẹ la rầy hay quở phạt. Đấy là lúc cái mùi Tết mơ hồ phảng phất ngày càng thêm đậm đặc, khi ra cửa ngong ngóng, đón đợi người thợ hớt tóc già trên chiếc xe đạp trành, không phanh, không thắng, ghé ngay nhà, húi cho cái đầu tóc vốn đã bờm sờm để chuẩn bị đón Tết. Đó cũng là lúc mẹ dẫn đi chợ xã, chợ huyện để ướm những bộ đồ may sẵn để mua cho cái quần, cái áo, thơm phức mùi vải, mùi hồ mới cứng. Và cũng thật là sung sướng, khi cầm trên tay những viên pháo chuột màu đỏ hồng, thơm mùi thuốc pháo, rồi đến những bộ bầu cua, cá cọp mới tinh là niềm vui của tuổi nhỏ.

 

Cái vị Tết cứ bùng lên lan tỏa khắp thôn xóm khi những đêm sương, dăm ba nhà cùng chung canh nồi bánh tét, củi than đỏ rực, khói nồng nàn cay tỏa, cùng với những câu chuyện kể đời xửa đời xưa mà mãi đến giờ cũng không quên được. Rồi tiếng heo, vịt, gà... rộn ràng trong buổi sớm tinh mơ. Là mùi vị thơm lừng, béo ngậy của những mâm cỗ cúng ông bà, cúng năm mới, cúng vườn, cúng ruộng, cúng nhà, cúng trâu bò... cứ tiếp nối không dứt cho đến ngày mùng Bảy, hạ nêu. Chấm dứt “ ba ngày Tết”.

 

Mùi vị Tết còn là khói nhang trầm trong ngày lẽo đẽo theo ông bà đi lễ chùa, cúng Phật, sợ hãi đứng xa ông Thiện, ông Ác, miệng khấn “Nam mô” mà mắt ướt nhạt nhòa!

 

Một hương vị nồng nàn, có khi khét lẹt, không thể nào quên của thời chúng tôi nữa là mùi pháo! Cùng tranh nhau giữa lả tả xác pháo đỏ rực, tìm kiếm những viên pháo lép, đem về lấy thuốc pháo sáng chế những trò chơi tuổi thơ có khi gây ra... hỏa hoạn, cháy phỏng! Mùi vị này, hiện nay có lẽ là mùi của thú vui ngắm pháo bông, mỗi khi giao thừa, Tết đến.

 

Tết còn thêm mùi của tiền mới, và âm thanh sột soạt, hoặc leng keng của những đồng xu mới cáu cạnh, tinh khôi, được bỏ vào những cái phong bao đỏ bằng bàn tay, là món quà mừng tuổi thiết thực và có lộc nhất mà lũ trẻ con mong chờ ở cha mẹ và người lớn đến nhà viếng thăm. Có những cái Tết trẻ được lì xì, đủ tiền mua cặp vở đi học cho cả năm sau. Những đồng tiền mới tinh ấy đã đi vào trong giấc mơ của rất nhiều con trẻ, mãi đến khi đã trở thành. thanh niên, nam nữ.

 

3.

 

Mùi vị Tết cứ mỗi năm, mỗi trở lại, tạo dấu ấn riêng biệt của cái Tết Việt Nam mà những ai xa nhà, xa quê hương luôn nhớ nhung và khắc khoải. Khi đã lớn lên, lập gia đình, có con cái, mỗi lần Tết lại thấm thêm cái mùi vị đắng đót của mồ hôi và cay xót của nước mắt để lo cho một cái Tết sum vầy và no đủ. Nhất là những năm thất mùa vì thiên tai, hạn hán hay bão lũ.


Mùi Tết đã trở thành quốc hồn, quốc túy trong lòng của mỗi người Việt xa quê, là chất “gây nghiện” hai chữ quê nhà, khiến ai đi xa, cũng nôn nao, quay quắt được trở về ăn Tết ở quê: “ Dù ai buôn bán nơi đâu/ Nhớ đến ngày Tết r nhau mà về”. Và cứ thế mà nhớ Tết. Nhớ mùi Tết.

 

– Trần Hoàng Vy

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.