Hôm nay,  

Bước Chân Cùng Tử

24/08/202014:26:00(Xem: 2940)

                                                                    

                                                                        

                      

 

          Nắng đã lên cao khi gã tới ven sông. Dọc theo con nước, hàng phượng tím rủ bóng êm đềm, thả rơi trong gió những cánh hoa tím nhạt, điểm lấm tấm trên viền cỏ xanh. Trời trong vắt, chan hòa nắng vàng và lãng đãng mây xanh.

          Gã nhìn quanh, tìm bóng con đò. Nhưng giòng sông vắng lặng. Gã đã thấy những bậc đá dẫn xuống bến. Đã có bến, thế nào cũng có đò. Gã suy luận như vậy, và an tâm tháo túi vải trên vai, tìm một chỗ bằng phẳng dưới gốc phượng, ngả lưng, lim dim mắt chờ đò.

 

          Trong ngầy ngật nửa mơ nửa tỉnh, gã như nghe thấy tiếng sáo diều vi vút thả gió trên bờ đê xưa. Chẳng phải chỉ diều bay mà gió cũng bay. Gió thả diều hay diều thả gió? Không có gió, diều chẳng thể bay, nhưng không có diều, ai thấy được mênh mang gió nổi?

          Ừ, không có diều, ai thấy được mênh mang gió nổi? Không khát cháy, sao cảm nhận được tột cùng ngọt mát của suối reo? Không khổ đau, liệu có biết thế nào là hạnh phúc?

          À, điều này thì có vẻ ngược lại với vị Thái Tử con vua Tịnh Phạn của giòng họ Thích Ca. Hơn hai ngàn sáu trăm năm trước, Thái Tử sống trong cung vàng điện ngọc, tràn đầy hạnh phúc trong sự bảo vệ, yêu thương của hoàng gia mà lại nhìn thấy khổ đau của muôn loài. Nhìn thấy rồi, Thái Tử buông bỏ hết hạnh phúc đang có, quyết đi tìm ra nguyên nhân sự khổ đau mà cứu khổ.

          Quả là bậc xuất thần!

          Từ thuở đó đến nay, ánh sáng Đạo Giác Ngộ không ngừng tìm bóng tối để soi tỏ đường đi. “Khắp đại địa mười phương ba cõi, cắm một cây kim nào xuống cũng chạm tới xương thịt Như-Lai”.

          Mỗi lần nhớ tới lời xác quyết đại từ đại bi này, từng nét chữ thầm lặng như đều chậm rãi chuyển thành âm thanh, lan tỏa nhẹ nhàng vào không gian bao la như tiếng ngân rất mực kỳ diệu của đại hồng chung trên lầu Tàng-kinh-các.

          Gã đã từng nương âm thanh này mà đi.   

          Gã lần mò, đi như người mù, mà cây gậy dẫn đường là bất cứ cuốn Kinh, Luật, Luận nào vớ được! Gã đọc say mê, suy luận bằng sự vô minh của phàm phu và tệ hại, là thực hành theo những suy luận đó!

          Gã biết làm sao hơn khi từng lê gót hết nơi này đến nơi kia mà chẳng thấy bản tâm? Lời nói của Vị Lạt Ma tối cao thường an ủi gã “Trên đường tầm sư học đạo, có khi phải từ mười đến mười lăm năm trò mới thấy vị thầy mình đang theo học có là minh-sư hay không!”

          Trời hỡi! làm sao trò giữ vững ý chí qua thời gian đằng đẵng đó nếu chẳng may thất vọng?

          Trong bóng tối vô minh, gã đã từng tìm đến ngôi chùa bỏ hoang trên núi, điên rồ thách thức sự u tịch hoang vu. Trong nhiều đêm, gã đã từng đổ mồ hôi hột khi dồn toàn lực, toàn trí, bám chặt vào công án “KHÔNG.” Ôi, cái chữ “Không” này chẳng không chút nào. Nó là cửa ải thập phần gian nan của giáo lý tối thượng mà lại luôn mang vẻ lửng lơ, bỡn cợt! Chẳng thế mà một thiền-sư đã ví công án KHÔNG như hòn sắt nóng, đỏ rực ngang cuống họng thiền-sinh. Phải dũng mãnh vận dụng đủ 360 cái xương và 84,000 lỗ chân lông trong thân thể mà chiến đấu với nó để, hoặc nuốt được nó, thoát qua cửa ải, hoặc bị nó đốt cháy!

          Trong nhiều đêm, gã đã bị đốt cháy!

 

          Một đêm, với thương tích tả tơi, gã chợt nhớ lời dạy của Đức Thế Tôn với tỳ-kheo Thera. Trong tăng đoàn, thầy Thera thường né tránh đám đông và chỉ thích vào rừng sâu tu tập một mình. Khi biết thế, Đức Thế Tôn đã dạy:

          “ Này các vị khất sỹ, này thầy Thera, người biết sống một mình không phải là người xa lánh đám đông mà là người giữ được chánh niệm, biết sống với giây phút hiện tại giữa đám đông, nhận biết mọi sự vật xung quanh một cách rõ ràng, sâu sắc mà không bị những sự vật đó chi phối. Người biết sống một mình là người biết an trú trong từng hơi thở hiện tại, không quay tìm quá khứ, không đuổi bắt tương lai. Người như thế, dù sống giữa đám đông vẫn là người sống một mình với bản tâm thinh lặng.”

          Gã đã mang lời dạy này, đeo túi vải lên vai, rời núi đồi mà xuống đồng bằng.

          Nơi đây, gã lại tuân lời Đức Thế Tôn đã dạy La Hầu La:

          “Con hãy học hạnh của đất. Dù người ta có dẫm đạp, đổ vãi lên đất những thứ bẩn nhơ hôi hám hay trải hương hoa thơm tho tinh sạch, đất cũng an nhiên không giận, chẳng mừng. Học được như thế, con sẽ không còn bị mọi cảm thọ bám vào. Biết nhìn cảm thọ như đối tượng bị nhìn, để thanh thản an nhiên trước mọi sự, thay vì đồng hóa mình với cảm thọ, rồi bị cảm thọ dẫn dắt đi”

Dù cố gắng thế nào, gã vẫn mơ hồ thấy nỗi khổ đau như những con vi trùng cực độc, cực nhỏ, âm thầm rút rỉa từng tế bào!

          Nếu cứ thế này, không bao lâu, gã sẽ chết như sâu mọt! Gã khóc cho sự bất hạnh của kẻ cùng tử trong Kinh Pháp Hoa, có gia tài trước mắt mà không nhận được Cha mình!

 

          Giòng sông lênh láng nắng vàng vừa soi bóng con đò.

          Lạ thay, cùng với tiếng mái chèo khua nước mỗi lúc mỗi gần, gã chợt nghe thấy tiếng chuông ngân. Gã nhìn quanh. Thành phố Biển Dài im trong trưa hè. Tiếng chuông từ đâu vậy?

          Con đò khẽ khàng cặp bến.

          Tiếng chuông tha thiết hơn.

          Gã đứng bật dậy.

          Một vài người đang xuống đò.

          Tiếng chuông ngân dài lời ru của mẹ.

          Gã nhìn ông lão lái đò. Rồi không chần chừ, gã quay vào thành phố, cứ nương theo tiếng chuông mà đi …. Đi mãi …. Tiếng chuông mỗi lúc mỗi rõ …..

          Hue Tran 01
Đây rồi.

          Một vị sư trẻ đang điểm từng tiếng chuông sau mỗi lần trang nghiêm xướng một hồng danh Chư Phật. Và đoàn Phật-tử áo lam khoan thai, kính cẩn đồng quỳ xuống, lạy một lạy. Sau tiếng khánh, tất cả thầy trò lại thong thả đứng lên. Thầy lại xướng một hồng danh, đánh một tiếng chuông, Phật-tử cùng trang nghiêm xưng tụng hồng danh và lại cùng quỳ xuống, lạy một lạy. Đạo tràng cực kỳ linh động trong động tác và âm thanh thập phần tôn kính.

          Gã đứng như tượng đá trước cửa chánh điện.

          Hue Tran 02
Gã không ý thức đã đứng như thế bao lâu, đã cởi giầy, bò vào đạo tràng lúc nào. Gã cũng không biết ai đã mang cho gã một cuốn “Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp LƯƠNG HOÀNG SÁM”, đặt trên kệ gỗ nhỏ ngay ngắn trước mặt gã, sau khi đã thân ái mở trang đang tụng lạy.

          Và gã nghe rõ tiếng mình tụng, hòa với đại chúng:

          “Tất cả chúng sanh từ vô thủy trở lại cho đến ngày nay, mê muội mãi mãi, vô minh che lấp, nước ái nhận chìm, nên khởi ra ba độc-căn, khởi ra bốn điên đảo. Từ ba độc-căn ấy sanh ra mười phiền não. Y nơi thân-kiến khởi ra ngũ-kiến. Y nơi ngũ-kiến khởi ra sáu mươi hai kiến. Y nơi thân, khẩu, ý khởi ra mười hạnh ác. Lại y nơi sáu căn tham đắm sáu trần, hơn nữa là mở rộng cửa ác cho tám vạn bốn ngàn trần lao xâm nhập. Trong khoảng một niệm, mở cửa cho tám vạn bốn ngàn trần lao, huống nữa là trong khoảng một ngày, một tháng, một năm, chung thân lịch kiếp thì đã khởi ra biết bao tội ác, vô lượng vô biên oán thù theo nhau không bao giờ cùng tận.

          Nguyện xin Chư Phật, Chư Đại Bồ Tát, rủ lòng từ-bi thâu nhiếp chúng con, đem sức đại trí huệ, sức hàng phục tứ ma, sức diệt trừ phiền não, sức giải oan kết độ thoát chúng sanh, sức giải thoát địa ngục, tế độ ngã quỷ, cứu vớt súc sanh, sức nhiếp hóa a-tu-la, sức nhiếp thọ nhơn đạo cùng sức vô lượng vô biên công đức, vô lượng vô tận trí huệ, nhờ những sức lực ấy khiến các chúng sanh có oán thù trong bốn loài, sáu đường, đồng đến đạo tràng, thọ lãnh sự sám hối của chúng con hôm nay …”(*)

          Toàn thân gã rung động khi tụng những câu này. Trời ơi! Đây có phải là “sự cảm thông không thể nghĩ bàn” của “Mười phương Phật-Bảo hào quang sáng ngời”?

Trời ơi! Có phải những khổ đau cùng cực trong lòng gã, ở phút giây chí thành đã bắt được tần số với đạo tràng đang tụng lạy bộ sám pháp Lương Hoàng Sám hôm nay? Gã tin rằng, chính bao tấm lòng trong đạo tràng này đã gọi gã qua âm thanh mơ hồ của tiếng chuông mà gã nghe được khi chờ đò sang sông.

          Muôn tỷ người trong thiên hạ, sao có những người vừa nhìn thấy nhau là thấy ngay duyên nợ? Thế nhân thường gọi đây là tiếng sét. Tiếng sét với duyên nợ thế nhân hay tiếng chuông với duyên lành đạo pháp có khác nhau không?

          Có lẽ khác. Và khác nhiều.

          Duyên nợ để tiếp tục vay, trả, lăn trôi trong luân hồi.

          Duyên lành để sám hối, diệt trừ nghiệp chướng, đem tâm thanh tịnh cúng dường Tam Bảo, đoạn dứt luân hồi.

          Cảm nhận như thế, gã bỗng thấy tay chân, mình mẩy nhẹ như tơ, khi cùng đại chúng, theo sự hướng dẫn của vị sư trẻ mà cung kính lễ lạy từng hồng danh:

          “Đại chúng cùng nhau chí tâm đảnh lễ quy-y đấng Đại Từ Bi Phụ của cả thế gian:

          Nam Mô Di-Lặc Phật

          Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật

          Nam Mô Nguyệt Diện Phật

          Nam Mô Bảo Đăng Phật

          …………………………..

          Nam Mô Vô Biên Thân Bồ Tát

          Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát”(*)

          Đại chúng trong đạo tràng có đủ nam phụ lão ấu, đều nhất loạt tụng, lạy an nhiên tự tại như không hề biết mệt.

Cuốn sám pháp Lương Hoàng Sám dày gần 700 trăm trang, tràn ngập lời tụng chí thành thiết tha, không chỉ sám hối cho bản thân mình, quyến thuộc mình mà sám hối cho muôn người, muôn loài, tỷ mỷ phân minh từng ba đường, sáu cõi. Sau mỗi đoạn thỉnh cầu, phát nguyện, lại lễ lạy xin Chư Phật, Chư Bồ Tát chứng minh. Trọn cuốn, hơn 1,600 hồng danh mà đại chúng tuần tự sụp lạy không sót một vị.

          Giờ nghỉ trưa thọ trai, gã được lão ông ngồi gần cho biết, hôm nay là ngày cuối trong sáu ngày tụng lạy liên tục đủ ba bộ. Gã nhẩm tính, rồi sửng sốt:

          -Ba bộ? Nghĩa là sáu ngày liên tiếp đã tụng hơn 2000 trang và lạy gần 5000 lạy?

          Lão ông cười hiền hòa, như điều gã sửng sốt chẳng có gì đáng sửng sốt:

          -Thưa vâng. Đại chúng được tụng Lương Hoàng Sám lần này là do duyên lành bất ngờ. Số là, có một nữ Phật tử, từng thưa với Chư Tôn Đức, khi nào có cơ hội, xin mở giới đàn đại-sám-hối để đại chúng được gieo duyên với sự mầu nhiệm đã xảy ra thời vua Lương Võ Đế bên Tầu.

Tương truyền rằng, hoàng-hậu Hy-Thị được nhà vua yêu quý nhất lại không phải là người hiền đức nên sau khi thác, phải đọa vào kiếp rắn mãng-xà. Bà hiện về than khóc, xin Vua cứu giúp. Nhà vua đã cung thỉnh vị đạo cao đức trọng thời đó là Hòa Thượng Chí Công, triệu tập các danh tăng, cùng soạn ra sám-pháp này. Mỗi lời, mỗi giòng đều như xuất phát tự đáy lòng thành tâm sám hối nên khi nhà vua và quần thần, quyến thuộc tụng lạy mới đến nửa cuốn đã ngửi mùi hương lạ. Và rồi, phảng phất trên hư không là bóng hình diễm lệ của hoàng-hậu Hy-Thị đến tạ ơn Vua và Chư Tôn Đức, vì nhờ những lời sám hối khẩn thiết mà bà đã được giải thoát, sanh lên cung trời Đao-Lợi.

 

          Lời thỉnh cầu của người nữ Phật-tử trong chùa, tưởng còn phải chờ lâu lắm. Nào ngờ, sau những ngày An Cư Kiết Hạ, Chư Tôn Đức lên đường hành hương thì Tỳ-kheo Thích Thường Tịnh nhớ tới lời thỉnh cầu, đã tình nguyện ở lại “giữ chùa”, nhưng chính là để biến ước mơ của đại chúng thành sự thật.

          Tụng lạy trọn cuốn phải hai ngày liền, mỗi ngày tám tiếng mới hoàn tất. Thế nhưng, “hữu xạ tự nhiên hương”, ngày nào cũng có người tất tả chạy đến than thở:

          -Trời ơi, chúng con không biết kịp, lỡ mất nửa cuốn rồi!

          Thầy đã từ bi an ủi rằng: 

          -Chưa mất đâu. Chúng ta sẽ tụng lại từ đầu.

          Đó chính là cơ duyên mà đại chúng được tụng lạy sám pháp Lương Hoàng Sám liên tiếp tới ba lần!

          Buổi chiều kết thúc sáu ngày tụng lạy, gã được Thầy tặng một bộ Lương Hoàng Sám. Gã cúi rạp đầu, kính cẩn nhận, rồi bái biệt ra đi.

          Đi đâu?

          Gã chợt nhớ là gã đang ở bên sông, chờ đò.

          Theo hương gió, gã đi lần về bờ sông.

          Người và cảnh khác lạ, không như khi gã nương tiếng chuông, về chùa. Rồi gã lại nhận ra, không phải người và cảnh khác lạ mà hình như chính gã đang khác lạ. Gã vừa thấy được sự vô minh, ngạo mạn của tự thân, đã làm uổng phí bao tháng ngày lang thang.

          Gã là gì mà mơ tưởng “Trực chỉ chơn tâm, kiến tánh thành Phật” khi tọa thiền, tham công án?

          Gã là gì mà dám tự nhủ “Kiếp này, chỉ kiếp này nữa thôi phải dứt  sanh tử luân hồi” khi tụng kinh niệm Phật?

          Gã là gì mà sau mỗi thời kinh, quỳ đọc dăm câu sám hối: “Đệ tử lâu đời lâu kiếp, tham giận si mê, kiêu căng lầm lạc, nay nhờ ơn Phật, biết sự lỗi lầm …” đã tưởng là dọn tâm thanh tịnh?

          Hơn bao giờ hết, gã hiểu rõ hơn hai chữ “Tàm và Quý” trong môn Duy Thức Học. Đó là lòng biết hổ thẹn với mình và với người. Tội lỗi thế gian tinh vi chằng chịt, cố tình lẫn vô tình, sám hối cả đời chưa hết. Chưa sám hối hết, đừng mong chỉ còn đời này sẽ dứt luân hồi, mà phải nguyện xin đới-nghiệp-vãng-sanh.

            “Con thành tâm phát nguyện xin được về cõi Phật. Nếu còn bao nhiêu nghiệp, xin cho con được trả dứt kiếp này, dù phải trả bằng thân mạng. Con thường nhớ giây phút cuối đời của Tôn Giả Mục Kiền Liên. Ngài là Đệ Nhất Thần Thông – một, trong mười Đại Đệ Tử của Đức Thế Tôn – mà tới ngày đó, giờ đó, sát na đó, Ngài đã không dùng thần thông, lại đứng yên để bọn ngoại đạo đánh đập bầm dập đến chết! Phải chăng Ngài biết rõ, đó là giây phút được trả dứt nợ tiền kiếp từng bất hiếu với mẹ cha … Nợ phải dứt, mới không còn sinh tử luân hồi.

Ngưỡng xin Chư Phật, Chư Bồ Tát chứng minh và gia hộ cho con.”

          Bên bờ sông cũ, gã lầm thầm tự phát nguyện như thế.

 

          Nắng đã nhạt. Con đò lại hiện ra trên giòng sông êm mát.

          Gã bật cười, liên tưởng đến nhân vật Tất Đạt trong tác phẩm nổi tiếng “Câu chuyện giòng sông” của văn hào Hermann Hesse. Đó là câu chuyện về chàng thanh niên tên Tất Đạt. Gần hết cuộc đời thanh xuân, Tất Đạt đã lang thang đi tìm chính mình, đến khi nếm đủ phong sương mới gặp được Vệ Sử, ông lão lái đò tự tiền kiếp, khai ngộ cho.

          Giờ phút này, bên bờ sông vắng, bất giác, gã buột miệng gọi to:

          -Vệ Sử!

          Ông lái vừa buộc giây neo, vừa ngơ ngác nhìn gã. Tất nhiên, tên ông không phải là Vệ Sử!

          Mặc! Gã lại hỏi:

          -Không qua sông ư?

          Tiếng đáp cộc lốc:

          -Không! Mai!

          Cột xong con đò, ông lão lên bờ, lững thững đi vào thành phố.

          Gã cũng lững thững đi vào thành phố, nhưng khác hướng.

 

Vừa đi, gã vừa nghĩ “Mai? Sao lại mai? Hôm trước đã qua, ngày mai chưa tới. Phải hôm nay! Phải hôm nay và ngay bây giờ chứ!”

          Hơi thở.

          Hôm nay.

          Bây giờ.

          Hơi thở.

          Hôm nay.

          Bây giờ.

 

          Gã thở đều, bước đều trong chánh niệm như thế, lòng thư thái, an nhiên.

           Không định hướng mà khi dừng bước thì đã thấy mái cong của ngôi chùa.

          Đó chính là đạo tràng gã vừa được khai tâm sám hối.

 

          Không xuống đò mà gã ngỡ như đã qua sông.

 

Huệ Trân

(Như-Thị-Am, mùa sen trắng)

18/08/2007 – 18/08/2020

                              

    (*)Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp LƯƠNG HOÀNG SÁM

          Dịch giả: Tỳ Kheo Thích Viên Giác

                    

                    

 

                 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày 21 tháng 4 năm 1975, Tư Tưởng ghé ngang hậu cứ, dẫn ba thằng em: Bắc Hà, Th/úy Trọng và tui đi nhậu ở quán Thuỷ Tiên, gần Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn ngày xưa, trước khi dời vô Phi trường Vĩnh Long...
Trên đường đến phòng trưng bày tác phẩm nghệ thuật của Gertrude Stein, tôi bước đi với tâm trạng phấn khích của một người sắp gặp Ernest Hemingway. Nắng chiều Paris phản chiếu từ cửa sổ những quán cà phê xuống con đường đá cũ tạo thành bóng râm dài phía trước. Tiếng reo hò chen lẫn tiếng đàn từ mấy quán bar nhỏ nơi góc phố gây nên bầu không khí sôi động dội vào tâm trí tôi...
Tôi bán hàng giải khát trước cổng nhà máy, khách hàng là những công nhân, bộ đội và cán bộ trong nhà máy. Tôi là “mụ” bán hàng “phản động” luôn tơ tưởng đến chuyện vượt biên. “tri kỷ” của tôi có chị Ky buôn bán ở xa cảng miền Tây, nghề mới của chị sau cuộc đổi đời 1975, trước kia chị là nhân viên một ngân hàng quận Gò Vấp. Chị Ky là hàng xóm, hôm nào ghé quán tôi không chỉ để uống ly đá chanh, uống ly cà phê mà cũng là dịp cùng tôi tâm tình than thở cuộc sống dưới thời xã hội chủ nghĩa, mơ ước chuyện vượt biên...
Mạ xếp hạng chuyện học hành của con cái là quan trọng hàng đầu. Với tiệm sách và quán cà phê, Mạ đã quán xuyến, lo cho gia đình có cuộc sống sung túc, thoải mái một thời gian dài...
Nghe tin chú Nghĩa sắp cưới vợ, bà con trong khu phố xôn xao nửa tin nửa ngờ. Chuyện lập gia đình ai trưởng thành chả thế! Ấy vậy mà với chú Nghĩa thì chuyện này hơi lạ. Đến khi chú đem thiệp đi mời hẳn hoi vậy chắc chắn là sự thật rồi không còn nghi ngờ gì nữa!
Từ ngày về hưu non, hai vợ chồng tôi cứ lục lọi hết website này đến website khác để tìm nơi đẹp đi du lịch; sợ rằng sự hào hứng của tuổi trẻ sẽ không còn nữa, nên phải đi hết những chỗ mình ao ước từ hồi nhỏ đã đọc sách mà không có thì giờ và phương tiện để thực hiện...
Cơn mưa nhỏ lướt qua bầu trời từ bình minh cũng đã chấm dứt; một tia nắng vàng lách qua lùm cây sồi chui vào góc chuồng cừu lớn. Những chú cừu đực ngập trong rơm rạ của máng ăn buổi sáng vừa ngẩng đầu về phía tia nắng và kêu be be...
Bây giờ, việc đi về giữa Mỹ và Việt Nam thật dễ dàng. Nhưng vào thập niên 80, 90 người đi kẻ ở tưởng chừng là biệt ly mãi mãi. Bạn đã nói với tôi như thế trong nước mắt. Và với sự ngăn cấm của gia đình, với tuổi trẻ khờ dại nông nổi, họ đã lạc mất nhau. Để rồi suốt phần đời còn lại, nỗi đau vẫn còn là vết thương rưng rức. Tôi xin ghi lại câu chuyện tình của bạn, như là một lời đồng cảm...
Ngạn rời căn nhà đó và xuống đây theo đơn xin đi làm trong hảng thịt bò. Ngày Ngạn đi cũng buồn tẻ ảm đạm như ngày anh rời đất nước. Người vợ và hai đứa con tiễn anh ở bến xe buýt ''Con chó rừng''...
Chiếc ghe vượt biển nhỏ xíu, mỏng mảnh của chúng tôi vậy mà chất lúc nhúc đến hơn 80 thuyền nhân, chẳng khác nào một cái lá lạc loài trên đại dương mênh mông, không biết đâu là bờ bến. Đoàn người rời bỏ quê hương tụm năm tụm ba, rải rác khắp thuyền, co ro trong cái lạnh ngoài khơi xa tít tắp, đầu óc hoang mang với trăm ngàn ý nghĩ...
Hôm ấy, trên facebook Group của nhóm cựu thuyền/ bộ nhân ty nạn Thailand, có xuất hiện bài post của Đức, chụp hình vợ chồng Đức đang tiễn con gái tại sân bay Tân Sơn Nhất đi qua Dallas Hoa Kỳ định cư theo chồng mới cưới. Ôi, chàng Đức chung chuyến tàu của tôi. Nhiều người quen cũ vào để lại những comments chúc mừng, cũng là những người tôi biết mặt biết tên, tôi liền vào tham dự, góp vui...
Người ta nói: “Hết quan là hoàn dân” và chỉ mong có vậy, đừng hết quan hoàn…tàn phế” thì buồn quá! Hôm nay lão Dụng đã tự ngồi dậy được. Lão không nhớ là mình đã nằm như khúc gỗ mục, bất động bao lâu rồi! “Mới đó mà đã lại sang một năm mới. Thời gian bây giờ có nghĩa gì đâu chứ!”: Lão lẩm nhẩm một mình!...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.