Hôm nay,  

Miếu Lớn Hơn Đình

23/02/202011:00:00(Xem: 3382)

 Trời tối đen như mực, tiếng mang tác, tiếng hổ gầm từ đại ngàn vọng về xen vào bản hợp tấu bất tận của lũ ếch nhái côn trùng quanh con suối Hầm Hô. Đêm đường sơn không hề im vắng như người dưới xuôi vẫn tưởng. Ông ngồi bên bếp lửa độc ẩm một mình, nậm rượu dường như cũng vơi cạn, tiếng củi cháy tí tách, ngọn lửa lung lay in bóng ông trên vách nứa. Ông vẫn ngồi như thế hàng đêm, dù nắng hạ hay mưa đông, kể từ ông về dựng cái lán bên suối này, tính ra cũng đã bảy ngàn đêm. 

 Bất chợt mắt ông quắc lên, ngưng thần lắng nghe âm thanh lạ hoà trong tiếng mưa rơi, bước chân đã bước lên bậc thang của lán. Thiên tánh con nhà võ cộng với sự từng trải mấy mươi năm khiến ông phán đoán chính xác. Lập tức ông lăn mình qua bên kia tấm phên, núp mình trong bóng tối. Cữa lán khẽ hé mở, một gã trung niên ló đầu vào và khẽ gọi:

 - Đô đốc, đô đốc! Ngài có ở đây không? 

 Y gọi ba lần nhưng ông không trả lời, qua khe hở ông quan sát và nhận ra y. Y bước hẳn vào trong lán và nói: 

 - Đô đốc, đệ tử là Hậu hiệu úy đây!  đệ tử đến đây không có ý đồ xấu, xin ngài chớ lo! 

 Bấy giờ ông bước ra, gã kia liền sụp lạy, nước mắt chảy dài mà miệng cứ thì thào: 

 - Đô đốc, đô đốc, chủ nhân đây rồi! 

 Ông đỡ y dậy, chỉ cho cái kệ bên bếp lửa để ngồi rồi rót cho y một chung rượu nhỏ. Y lễ phép bái tạ xong mới uống.

 - Đệ tử đã đi tìm đô đốc suốt mười lăm năm nay. Sau khi Nguyễn vương về Phú Xuân trả thù tàn khốc những người có liên can đến soái công. Đệ trốn lên miền thượng và làm gã lái buôn thương hồ, rày đây mai đó, khi thì mua bán sản vật giữa miền thượng với các phủ Quy Nhơn, Thăng Hoa, Tư Nghĩa… Khi thì vào tận Hà Tiên trấn, có năm theo thương hồ lên Nam Vang, Vạn Tượng… Đến đâu đệ cũng dò la tông tích của đô đốc nhưng bặt vô âm tín. Mãi đến hôm nay, sau khi trao đổi sản vật ở bến Trường Trầu xong thì có người bảo: “đầu nguồn suối Hầm Hô có một lão thượng sống một mình trong cái lán, lão ấy biết nói tiếng kinh, cứ mỗi nửa con trăng thì lão ấy gùi sản vật xuống đây đổi gạo, muối và rượu Bầu Đá…” Nghe đến đây tự nhiên lòng đệ tin chắc mười mươi đấy là chủ nhân! Đệ liền gởi hàng hoá laị cho lữ điếm rồi tìm đường vào đây, để che mắt tai mắt triều đình, đệ bảo tìm vào sơn thượng để mua mật ong rừng. Trước khi vào đây đệ có nghe người làng Phú Phong bảo rằng: “ Lão thượng người Bana vẫn thường xuống đây đổi sản vật tên là ông Dõng” từ đó đệ càng tin chắc hơn người đó chính là dô đốc vậy! 

 Ông ngồi trầm ngâm, vẻ mặt bình thản nhưng đôi mắt dường như có chút ngấn lệ, mười lăm năm rồi còn gì. Ngày ấy ông còn là một viên dũng tướng còn Hậu hiệu úy là đệ tử, là học trò của ông. Hai thầy trò theo soái công vào Nam ra Bắc, chinh chiến mười bốn năm ròng, lập nên những chiến công hiển hách và lẫy lừng. Hậu hiệu úy là tay thám báo trẻ, góp phần không ít vào những chiến công đó!  Sau trận Đống Đa, giặc Bắc phương sợ soái công như sợ cọp. Đaị Việt suốt nghìn năm, chưa bao giờ rạng rỡ như thế! nhưng than ôi! sự đời vốn vô thường, mệnh trời khó biết. Soái công đột ngột băng, cơ nghiệp huy hoàng gầy dựng bao nhiêu năm chợt tan thành bọt nước. Ông lặng lẽ rót chung rượu rồi tợp nhẹ. Gã kia vẫn ngồi lặng lẽ, không nói gì. Ông tiếp tục dòng hồi tưởng : Trận cuối ở Lũy Thầy, ông cùng vợ chồng nữ đô đốc đốc thúc ba quân nghênh chiến chặn quân Nguyễn Vương ra Bắc. Cuộc chiến đang khốc liệt thì ấu chúa trẻ người non dạ hạ lệnh lui quân…Thế trận vỡ tan, tuyến phòng thủ cuối cùng sụp đổ, cơ hội cuối cùng tan thành mây khói. Vợ chồng nữ đô đốc bị quân Nguyễn Vương bắt sống sau đó thì mọi người tản mác khắp nơi. Ông vượt thoát qua Bồn Man nương náu , khi thì xuống Cao Miên, lúc về miền thượng đạo sống lẫn với người Bana, Ê Đê…cuối cùng thì về bên con suối này dựng lán ở cho đến hôm nay. Cái lán cách xa làng một khoảng cách đủ để bọn tai mắt triều đình không bén mảng đến. Người làng Phú Phong, An thái, An Truyền… cũng có biết ông về nhưng tất cả kín miệng như bưng. Lòng người vẫn còn chút tưởng đến người cựu trào năm xưa. Ông chìm trong dòng suy tư bất tận. Gã kia lên tiếng kéo ông về với thực tại: 

 - Đô đốc, ngài đã quên soái công rồi sao? 

 Nhanh như cắt, ông chụp lấy cây gậy lồ ô dựng ở góc lán và rút ra thanh đoản đao chỉa vào gã hiệu úy:

 - Ngươi đến đây dò la? 

Hậu hiệu úy mặt không đổi sắc, y qùy tâu:

 - Thưa đô đốc, đê tử theo ngài chinh chiến mười bốn năm ròng. Đô đốc đã chỉ dạy võ nghệ, dìu dắt trên đường binh nghiệp. Đệ tử luôn nhớ ơn ngài, xem ngài như cha, như thầy, làm sao đệ tử có thể đến để dò la?  Mười lăm năm ròng đi tìm tông tích ngài, sống không đổi dạ chết không thay lòng. Nếu đệ tử ăn ở hai lòng thì trời tru đất diệt! 

 Ông thâu thanh đao về, laị hỏi: 

- Vậy ngươi đến đây với mục đích gì? 

 Y tâu: 

 - Vì lòng tưởng nhớ, Con nhà võ có thể hủy hình chứ không thể huỷ tiết! Đệ tử còn một việc muốn thưa. 

 Ông bảo: 

 - Việc gì? Nói mau! 

Hậu hiệu ý hạ giọng:

 - Đệ tử chiêu tập hơn ngàn dũng sĩ, ngày đêm tập luyện để báo thù và khôi phục cơ nghiệp cho soái công. Xin đô đốc hãy đứng ra làm minh chủ, hiệu triệu dân quân! 

Y vẫn quỳ đấy, ngửa mặt nhìn ông với ánh mắt van lơn và đầy nhiệt huyết. Ông nhét đoản đao vào laị cây gậy lồ ô, đoạn đỡ y ngồi lên, nước mắt ông chảy thành dòng.

 - Hậu hiệu úy! Ngươi quả là con nhà võ, tiết tháo can cường, trung nghĩa một lòng động đến đất trời nhưng tiếc một điều sự si mê của ngươi cũng quá lớn. Ngươi đang đẩy ngàn dũng sĩ kia vào cữa tử, không chỉ một ngàn cái đầu lâu bêu trên cọc mà còn bao nhiêu họ sẽ diệt tộc đây?  Năm xưa khi soái công băng, triều đình vẫn còn thiên binh vạn mã, xe pháo đủ đầy, quân tinh tướng giỏi… mà còn sụp đổ. Một ngàn dũng sĩ thì sẽ làm được việc gì? Bá tánh lầm than vì binh lửa can qua đã đủ rồi, đừng gây thêm nữa! ý trời không biết được, lòng dân giờ cũng đã đổi thay không còn như mười lăm năm trước nữa. Người dũng sĩ không sợ chết nhưng đừng chết vì việc vô ích! vả laị thiên hạ của bá tánh nào phải của riêng của soái công ta , bao đời nay các họ: Lê, Lý, Trần, Lê… vẫn thay nhau làm chủ. Giờ Nguyễn Vương thay soái công làm chủ thiên hạ cũng là lẽ thường tình. Ta tưởng nhớ soái công và những công lao hiển hách của người có bao giờ nguôi, nhưng chuyện khôi phục laị cơ nghiệp của soái công là không tưởng, không thể được, chỉ tổ gây thêm chết chóc máu xương mà thôi! 

 Hậu hiệu úy thưa:

 - Không lẽ khoanh tay? Không lẽ phụ lòng soái công? 

 Ông ôn tồn:

 - Gây thêm binh đao mới là phụ lòng soái công đấy! bá tánh yên rồi, cơ hội nghìn năm chỉ có một lần, vĩnh viễn không bao giờ lập laị. Soái công cũng như các huynh đệ chiến tướng chắc cũng chẳng còn muốn nhắc laị chuyện đau lòng. 

 Hậu hiệu úy lại thưa: 

 - Vậy giờ phải hành xử thế nào? 

 Ông nhìn y bảo:

 - Hãy sống theo đời nhưng đừng đu theo thói đời, không xu phụ quyền thế, kể như đã không phụ soái công rồí!

 Nói xong ông laị rút thanh đoản đao ra khỏi cây gậy và trao cho y: 

 - Thanh đoản đao này tên Trủy Thủ Huyết Long Đao, nó có thể cắt đứt mọi gươm giáo trên đời mà không hề sứt mẻ. Danh môn chánh phái hay tứ chiếng giang hồ đều thèm khát săn lùng nó. Nó vốn của Hám Hổ Hầu, y mang nó từ Triều Châu sang. Y theo phò tá soái công nhưng sau đó tự phụ và tạo phản nên bị soái công giết đi. Soái công tặng nó cho ta. Ta đã giữ nó bên mình suốt bao nhiêu năm nay. Ta dùng nó hộ thân. Khi cần sẽ tự xử lấy mình chứ nhất quyết không để lọt vào tay quan quân triều đình. Nay ta không cần nữa, ngươi hãy giữ lấy, xem như chút lòng của ta gởi cho ngươi! 

 Hậu hiệu úy sụp lạy giơ hai tay đón nhận thanh đoản đao

 - Xin đa tạ đô đốc, kiếp này dầu gan lầy óc nát cũng không quên người!  Mười lăm năm nay mới gặp nhau phút giây này, biết có còn ngày nào gặp laị? 

 Ông đỡ y đứng dậy, mắt rơm rớm vỗ vai y:

 - Con nhà võ đôi khi cũng không cầm lòng đặng, lần hội ngộ này là lần đầu mà cũng có thể là lần cuối. Cuộc đời vô thường làm sao biết chuyện gì xảy ra ngày mai. Mai kia có gặp laị ở suối vàng thì ta với ngươi cùng bái kiến soái công vậy! 

 Y ôm chầm lấy ông, nức nở

 - Đô đốc, chủ nhân, ông thầy của tôi! 

 Ông lui laị góc bếp lấy bầu rượu lớn rót ra hai chén đầy và trao cho y một chén

 - Hãy cùng ta cạn chén này, ngày mai khi mặt trời quá ngọ bọn lính canh điếm ăn nhậu say sẽ ngủ, lúc ấy ngươi hãy đi! 

 Ngọn lửa bập bùng in bóng hai người trên phên liếp trông như hai pho tượng,  ngoài trời bóng tối đặc quánh như cái kén bọc lấy căn lán. 

 Mùng năm mùa xuân năm ấy ông chết, dân các làng Phú Phong, Kiên Mỹ, An Truyền… xì xầm bàn tán:” Ông Dõng chết rồi”. Các bô lão làm giấy lên quan sở taị xin lập miếu thờ thành hoàng bổn cảnh. Ngày dỡ lán của ông dựng miếu thờ, để tránh tai mắt triều đình, các bô lão không đọc văn tế mà chỉ khấn thầm: “ Sanh vi tướng tử vi thần, dân làng xin lập miếu thờ ngài, xuân thu nhị kỳ tế lễ.  Đô đốc sống khôn chết thiêng xin hãy hộ quốc hộ dân…”

 Không biết bao lâu kể từ khi lập miếu, tự dưng dân quanh ngày ngày hát ru con:

  Ai cho miếu lớn hơn đình

  Bậu có chồng mặc bậu bậu vẫn gọi mình bằng anh


TIỂU LỤC THẦN PHONG 

Đồ Bàn thành, 8/2019

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày 21 tháng 4 năm 1975, Tư Tưởng ghé ngang hậu cứ, dẫn ba thằng em: Bắc Hà, Th/úy Trọng và tui đi nhậu ở quán Thuỷ Tiên, gần Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn ngày xưa, trước khi dời vô Phi trường Vĩnh Long...
Trên đường đến phòng trưng bày tác phẩm nghệ thuật của Gertrude Stein, tôi bước đi với tâm trạng phấn khích của một người sắp gặp Ernest Hemingway. Nắng chiều Paris phản chiếu từ cửa sổ những quán cà phê xuống con đường đá cũ tạo thành bóng râm dài phía trước. Tiếng reo hò chen lẫn tiếng đàn từ mấy quán bar nhỏ nơi góc phố gây nên bầu không khí sôi động dội vào tâm trí tôi...
Tôi bán hàng giải khát trước cổng nhà máy, khách hàng là những công nhân, bộ đội và cán bộ trong nhà máy. Tôi là “mụ” bán hàng “phản động” luôn tơ tưởng đến chuyện vượt biên. “tri kỷ” của tôi có chị Ky buôn bán ở xa cảng miền Tây, nghề mới của chị sau cuộc đổi đời 1975, trước kia chị là nhân viên một ngân hàng quận Gò Vấp. Chị Ky là hàng xóm, hôm nào ghé quán tôi không chỉ để uống ly đá chanh, uống ly cà phê mà cũng là dịp cùng tôi tâm tình than thở cuộc sống dưới thời xã hội chủ nghĩa, mơ ước chuyện vượt biên...
Mạ xếp hạng chuyện học hành của con cái là quan trọng hàng đầu. Với tiệm sách và quán cà phê, Mạ đã quán xuyến, lo cho gia đình có cuộc sống sung túc, thoải mái một thời gian dài...
Nghe tin chú Nghĩa sắp cưới vợ, bà con trong khu phố xôn xao nửa tin nửa ngờ. Chuyện lập gia đình ai trưởng thành chả thế! Ấy vậy mà với chú Nghĩa thì chuyện này hơi lạ. Đến khi chú đem thiệp đi mời hẳn hoi vậy chắc chắn là sự thật rồi không còn nghi ngờ gì nữa!
Từ ngày về hưu non, hai vợ chồng tôi cứ lục lọi hết website này đến website khác để tìm nơi đẹp đi du lịch; sợ rằng sự hào hứng của tuổi trẻ sẽ không còn nữa, nên phải đi hết những chỗ mình ao ước từ hồi nhỏ đã đọc sách mà không có thì giờ và phương tiện để thực hiện...
Cơn mưa nhỏ lướt qua bầu trời từ bình minh cũng đã chấm dứt; một tia nắng vàng lách qua lùm cây sồi chui vào góc chuồng cừu lớn. Những chú cừu đực ngập trong rơm rạ của máng ăn buổi sáng vừa ngẩng đầu về phía tia nắng và kêu be be...
Bây giờ, việc đi về giữa Mỹ và Việt Nam thật dễ dàng. Nhưng vào thập niên 80, 90 người đi kẻ ở tưởng chừng là biệt ly mãi mãi. Bạn đã nói với tôi như thế trong nước mắt. Và với sự ngăn cấm của gia đình, với tuổi trẻ khờ dại nông nổi, họ đã lạc mất nhau. Để rồi suốt phần đời còn lại, nỗi đau vẫn còn là vết thương rưng rức. Tôi xin ghi lại câu chuyện tình của bạn, như là một lời đồng cảm...
Ngạn rời căn nhà đó và xuống đây theo đơn xin đi làm trong hảng thịt bò. Ngày Ngạn đi cũng buồn tẻ ảm đạm như ngày anh rời đất nước. Người vợ và hai đứa con tiễn anh ở bến xe buýt ''Con chó rừng''...
Chiếc ghe vượt biển nhỏ xíu, mỏng mảnh của chúng tôi vậy mà chất lúc nhúc đến hơn 80 thuyền nhân, chẳng khác nào một cái lá lạc loài trên đại dương mênh mông, không biết đâu là bờ bến. Đoàn người rời bỏ quê hương tụm năm tụm ba, rải rác khắp thuyền, co ro trong cái lạnh ngoài khơi xa tít tắp, đầu óc hoang mang với trăm ngàn ý nghĩ...
Hôm ấy, trên facebook Group của nhóm cựu thuyền/ bộ nhân ty nạn Thailand, có xuất hiện bài post của Đức, chụp hình vợ chồng Đức đang tiễn con gái tại sân bay Tân Sơn Nhất đi qua Dallas Hoa Kỳ định cư theo chồng mới cưới. Ôi, chàng Đức chung chuyến tàu của tôi. Nhiều người quen cũ vào để lại những comments chúc mừng, cũng là những người tôi biết mặt biết tên, tôi liền vào tham dự, góp vui...
Người ta nói: “Hết quan là hoàn dân” và chỉ mong có vậy, đừng hết quan hoàn…tàn phế” thì buồn quá! Hôm nay lão Dụng đã tự ngồi dậy được. Lão không nhớ là mình đã nằm như khúc gỗ mục, bất động bao lâu rồi! “Mới đó mà đã lại sang một năm mới. Thời gian bây giờ có nghĩa gì đâu chứ!”: Lão lẩm nhẩm một mình!...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.