Hôm nay,  

Mùa Xuân Bất Tận Trong Tim Ta

2/17/200700:00:00(View: 3128)

- Tôi đang ở vùng Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ, chỉ còn hai ngày nữa là Tết Đinh Hợi, 2007, ở đây  Mùa Đông thật lạnh lẽo, nước đóng đá mặt đường, cây trơ cành trụi lá, gió lạnh thấu  xương. Bây giờ sắp Tết mà  không có nắng ấm,   mai vàng, chim hót, bướm  lượn khoe sắc  như những ngày đầu  Xuân ở quê nhà.  Nhưng người dân ở đây cũng đón Xuân, mừng Xuân trong kỷ niệm,  với tâm Xuân.

Các đoàn thể trong cộng đồng cũng tổ chức Chợ Tết  để đồng hương có dịp vui Xuân, sắm Tết theo phong tục tập quán cổ truyền của dân tộc và cũng để cho thế hệ trẻ  sinh trưởng ở đất Mỹ có dịp biết hương vị Tết của quê hương Việt Nam.

Tại các chợ này có  bày bán đủ các  thức ăn cổ truyền ba ngày Tết như bánh tét, bánh chưng, mứt gừng, mứt dừa, nem chua, chả lụa..dù không có mai thật thì các cửa hàng cũng bày bán hay chưng hoa mai giả màu vàng rực rỡ, bên cạnh  hoa đào, hoa lan,  bonsai , có cả tranh vui và câu đối đỏ nữa.

Hầu hết các gia đình đều có bày bàn thờ tổ tiên để đón ông bà  cha mẹ quá  vãng  về nhà vui ba ngày Tết. Tùy theo tín ngưỡng người ta đi nhà thờ hay đi chùa để cầu nguyện đầu năm. Cầu nguyện cho gia đình được an lành hạnh phúc và cho quê hương có được  tự do, no ấm.

Dù ở xứ người không có không khí Xuân như ở quê nhà,  đồng bào  ở đây  cũng đón Xuân với tâm Xuân, một mùa Xuân được tạo ra trong tâm tưởng với ước mong Chúa Xuân sẽ mang lại cho chúng ta một niềm hy vọng mới tốt đẹp hơn, may mắn hơn, sáng sủa hơn.  Vì vậy những ngày đầu năm chúng ta hay gởi  nhau những lời chúc tụng tốt đẹp nhất. Lời chúc đó xuất phát từ tâm từ, tâm bi, muốn  mọi người được an vui, được hạnh  phúc.

Tâm Xuân  thì không lệ thuộc vào thời gian và không gian. Tâm Xuân không bắt đầu sau mùa Đông lạnh lẽo, cũng không chấm dứt sau ba tháng  ấm áp.   Khi tâm ta có an lạc, không lo âu, không sợ hãi thì dù trong hoàn cảnh nào, nơi chốn nào  trong  ta cũng có mùa Xuân.

Hãy thử tưởng tượng tâm ta như một miếng đất (tâm địa), trong mãnh vườn tâm đó nếu chúng ta chịu khó tưới tẩm, vun trồng hạt giống từ bi, hỷ xả  thì cây từ bi, cây hỷ xả sẽ đâm chồi nẩy lộc, cành lá sum xuê, đơm hoa kết quả, sẽ ngăn  cản ánh mặt trời chiếu rọi xuống đám  cỏ hoang sân hận, đố kỵ, ganh ghét phía dưới. Những  đám cỏ hoang, gai gốc xấu  này không có ánh sáng chiếu rọi , sẽ bị tàn lụi, chết dần.  Từ đó tâm của chúng ta sẽ  bừng nở rộ hoa vô ưu,  xinh tươi, rực rỡ với  muôn hồng nghìn tía đẹp như  cảnh vườn Xuân của thế gian.

Khi chúng ta có tỉnh thức, có an lạc thì cảnh vật chung quanh ta sẽ êm ả, tươi mát, trong tâm ta  có mùa Xuân. Còn ngược lại  khi tâm ta có những buồn phiền, bực bội, giận hờn, lo âu,  sợ hãi  thì dù bên ngoài thời tiết có ấm áp, có hoa tươi bướm  lượn,  lòng ta cũng lạnh lẽo  như mùa Đông, nóng bức  như mùa Hè và u buồn ảm đạm  như mùa Thu.

Vậy để có mùa Xuân bất tận trong tim ta, mùa Xuân không chỉ có trong ba ngày Tết, hay trong ba tháng  mùa Xuân,  chúng ta nên nuôi dưởng lòng từ bi để biết thương yêu , nuôi duỡng tâm hỷ xả để biết tha thứ cho nhau. Hãy mở rộng tâm từ,  tâm bi, không phải chỉ đối con người đồng loại mà cho tất cả  chúng sinh, muôn loài, muôn vật. Khi hoa từ,  hoa bi, hoa hỷ, hoa xả có mặt trong vườn tâm thì những cỏ hoang sân hận,  si mê,  nhỏ nhen sẽ không còn chỗ đứng trong vuờn tâm nữa.

Chỉ cần buông bỏ một chữ “xả” thôi,  nếu chúng ta thực hiện được thì tâm tư  mình sẽ rất thảnh thơi, trong sáng như trời cao bể rộng,  thuyền bè có qua lại cũng không để dấu tích gì; như mây trời trôi nổi cũng không làm ngăn ngại hư không. Chỉ  với  một chữ “xả”,  tâm  ta sẽ thấy tràn đầy an lạc, hạnh phúc. Xuân bên ngoài  bị thời tiết và thời gian  giới hạn, còn Xuân trong tâm ta thì bất tận, bất cứ lúc nào, nơi nào khi trong  ta có  từ,  bi,  hỷ,  xả thì ngay tức khắc lúc đó tâm  ta có mùa Xuân.

Lúc đó tâm chúng ta mới thực sự có cơ hội tiếp xúc với nàng Xuân, nàng Xuân sẽ hiển lộ toàn chân trước mắt chúng ta với nắng nhẹ, trời trong, núi xanh, nước biếc, bướm ong bay lượn,  khoe sắc tươi màu,  chim hót líu  lo, suối reo róc rách,  gành đá thì thầm,  tiếng cười trong trẻo của trẻ thơ,  tiếng  pháo dòn  tan hòa cùng  tiếng chuông chùa êm đềm ngân vang đâu đó...

Chúng ta phải  cố gắng làm sống lại trong ta lòng từ bi hỷ xả để có cái nhìn thương yêu trìu mến đối đồng loại và hết thẩy chúng sinh, từ đó mới  có thể tận hưởng những gì mà Chúa Xuân đem đến cho chúng ta. Mùa Đông giá lạnh, mùa hè khô cằn héo úa sẽ biến mất.

Nên  nhớ, lúc nào,  ở đâu,  tâm ta có từ bi, có  hỷ xả là  tức khắc có mùa Xuân  rực rỡ bất tận trong tâm ta.

“Xuân đẹp nhất là mùa Xuân bất tận

Hoa nở trong tim và gió đầy lòng

Bình minh đến ngập hồn bao thơ mộng

Bước chân trần về vạn nẻo mênh mông

Xuân đẹp nhất là mùa Xuân bất tận

Xuân ở trong ta, xuân của mọi nhà

Tình  chân thật xin trao về muôn hướng

Lấy tin yêu hòa vũ trụ bao la”

(Nghiêm Xuân Cường)

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tôi không phải người gốc Tây Ninh. Nhưng tôi là một tín hữu Cao Đài, cho nên có thể nói tôi cũng có chút “dây mơ rễ má” với vùng đất Thánh này. Những tản mạn trong bài viết này khởi nguồn khi tôi tình cờ đọc được bài viết “Viện Đại Học Cao Đài Và Chúng Tôi, Một Duyên Tình Dang Dở,” của cố Giáo sư Nguyễn Văn Trường và Giáo sư Tiến sĩ Mai Thanh Truyết trên trang nhà của Viện Sử Đạo Cao Đài Toà Thánh Tây Ninh...
Nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự, từ Đà Lạt, gửi cho chúng tôi truyện ngắn sau đây, cũng là một chương trong tiểu thuyết của anh, cuốn Trên đỉnh thanh xuân, viết từ năm 1967, khi anh còn là sinh viên ở Huế, trong phong trào Phật giáo miền Trung, những năm sôi động...
Ngày 17 tháng 10/2021, tại Hội Chợ Sách (Book Fair) ở Trung Tâm thương xá Eden, do Nhà Việt Nam tại Virginia và Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại tổ chức, “Tuyển Tập THƠ Chim Bay Mỏi Cánh” của nữ sĩ Cao Mỵ Nhân được giới thiệu lần đầu tiên...
Sách mới của nhà văn Phạm Quốc Bảo: Chuyện Nào Vẫn Cần Thuật Lại, cuốn II.
Trong Stories to tell, Charles Williams viết: “Những hình chụp gia đình có thể xem như tài liệu văn hóa vì chúng ghi lại những sự kiện thành hình cuộc sống của gia đình.” Có nghĩa là một loại tiểu sử không có chữ nhưng có minh chứng về đời sống lúc tấm ảnh được ghi nhận. Nhưng, có lẽ, nhận xét này chỉ đúng trong một số nền văn hóa; ở một số khác, có khi ngược lại, vì ở quê tôi, khi chụp hình gia đình, thường được dàn dựng ở những nơi có hậu trường đẹp đẽ, giàu sang, nhưng không thuộc về mình, chỉ mượn chụp cho oai. Tôi vẫn còn tấm hình đứng bên cạnh chiếc xe thể thao “xì gà” màu xám bạc như phi thuyền của ông khách lạ. Nhiều bạn mới quen lé mắt vì tưởng tôi là chủ nhân chiếc xe đua. Người ta nói, một tấm hình có thể thay thế được cả ngàn chữ. Không biết những tấm hình ngày nay, nói thật hay nói nói dối?
Một người sống được gần một trăm tuổi, còn sinh lực dồi dào, nên chưa ra đi, đó là chuyện xưa nay hiếm. Hơn nữa, trong tác phẩm mới nhất: Tinh thần lãnh đạo, sáu nghiên cứu trong chiến lược thế giới (Leadership - Six Studies in World Strategy)...
Bản đồ thứ ba về thế giới thời hậu Chiến tranh Lạnh bắt nguồn từ cái thường được gọi là “Lý thuyết Hiện thực” (Realist Theory) về quan hệ quốc tế. Theo lý thuyết này, các quốc gia thực sự là chủ thể quan trọng duy nhất trong các vấn đề thế giới, mối quan hệ giữa các quốc gia là một mối quan hệ hỗn loạn (anarchy), và do đó để đảm bảo sự tồn tại và an ninh của họ, các quốc gia luôn cố gắng tối đa hóa quyền lực của mình. Nếu một quốc gia nhận thấy một quốc gia khác gia tăng quyền lực của họ và do đó trở thành một mối đe dọa tiềm tàng, nó sẽ cố gắng bảo vệ an ninh của chính mình bằng cách tăng cường quyền lực của mình và / hoặc bằng cách liên minh với các quốc gia khác. Những lợi ích và hành động của trên dưới 184 quốc gia của thế giới thời hậu Chiến tranh Lạnh có thể được dự đoán từ những giả định này.
Tuyển tập TIÊU DAO BẢO CỰ, gồm 4 quyển...
Lời Bạt tập thơ Lục Bát Tản Thần 2...
Hai bài thơ Nguyễn Đình Chiểu làm để điếu Phan Thanh Giản có thể được sáng tác ngay sau khi Phan Thanh Giản quyên sinh (năm 1867) hay – ở trường hợp bài chữ Hán – sau khi ông bị truy đoạt hết chức tước và đục tên khỏi bia Tiến sĩ. Từ đó đến nay đã trên 150 năm. Qua nhiều thế hệ, hai bài thơ ấy vẫn được coi là những tác phẩm bộc lộ niềm cảm thông trước hoàn cảnh cực kỳ khó khăn của Phan Thanh Giản và bày tỏ lòng thương tiếc đối với ông. Ít năm gần đây, một vài tác giả ở trong nước biện luận rằng Nguyễn Đình Chiểu đã không thực sự thương tiếc Phan Thanh Giản, mà chỉ làm ra vẻ thương tiếc để mai mỉa và lên án ông. Những hàng phía sau là một cố gắng đọc lại bài thơ điếu bằng chữ Hán một cách cẩn trọng, để tìm hiểu chủ ý đích thực của Nguyễn Đình Chiểu khi sáng tác bài thơ ấy.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.