Hôm nay,  

Wto - Bài Học Nhập Môn Của Hội Nhập

6/2/200600:00:00(View: 3541)

Sau khi mon men mãi ở cửa biển, Việt Nam bắt đầu hội nhập vào luồng trao đổi tự do của thế giới như người giăng buồm ra khơi. Ngoài đại dương sẽ có cá lớn, nhưng cũng có sóng cả...

Triển vọng và rủi ro đều có đấy và có thể thấy trước được từ kinh nghiệm của các nước khác, nếu như muốn chịu mở mắt.

Thực ra, người dân đã mở mắt và muốn biết vì đã từng lấy nhiều rủi ro rồi tạo ra một phép lạ kinh tế khiến chế độ khỏi sụp đổ và giúp cho lãnh đạo nói phét về thành tích đổi mới.

Điều đáng tiếc là lãnh đạo chậm hiểu lại đa nghi, mưu vặt và tự hài lòng quá lâu trong vùng nước lợ ngoài cửa biển. Vì vậy, từ 2004, năm nào cũng thông báo là năm nay sẽ gia nhập WTO mà chuyện không thành. WTO trở thành mục tiêu di động, một tiêu chuẩn chứng tỏ rằng lãnh đạo đã văn minh và Việt Nam đã thành hiện đại. Người ta đã lầm lẫn danh và thực.

Bây giờ, ngày ra khơi đã tới, người dân sẽ được xua ra biển cạnh tranh… chúng ta học được gì từ kinh nghiệm học bài quá chậm ấy của Hà Nội"

Hà Nội nộp đơn xin gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới từ đầu năm 1995 (ngày bốn Tháng Giêng). Mãi đến ba năm sau (Tháng Ba 1998) mới bắt đầu tìm hiểu và đi vào thủ tục thảo luận, rồi từ 2003 mới thực sự "dọn mình" cho chuyến hải hành sau khi đắn đo vừa tiến vừa lùi với Hiệp định Thương mại Song phương ký kết cùng Hoa Kỳ.

WTO là một câu lạc bộ 149 quốc gia cùng thỏa thuận với nhau về nguyên tắc tự do kinh tế và xứ nào muốn gia nhập thì phải tuân thủ những quy tắc đã thống nhất của tất cả các hội viên. Vì vậy mới có việc thảo luận đa phương với nhóm đại diện các hội viên và song phương với những quốc gia có nêu vấn đề.

Trong việc gia nhập, không có chuyện mặc cả là tôi cho cái này nhưng đòi cái khác như trong một thương ước song phương, một hiệp định thương mại giữa hai nước, mà là chuyện tôi hứa tuân thủ những quy định của WTO, chỉ xin thông cảm ở điều kiện thực thi vì hoàn cảnh riêng. Theo kiểu con cá nó sống vì nước…

Việt Nam quen với chuyện "xin-cho", lần đầu phải xin và được cho, với điều kiện.

Cửa ải khó nhất và sau cùng là Hoa Kỳ coi như đã lọt, nay chỉ còn bản văn chi tiết, cầu mong được ký trước khi khai mạc hội nghị cấp Bộ trưởng Thương mại của Diễn đàn Kinh tế Á châu Thái bình dương APEC, sẽ triệu tập tại Hà Nội vào hai ngày đầu tháng Sáu. Sau đấy là hoàn tất việc thương thảo đa phương với WTO vào tháng Bảy này, đồng thời xin Quốc hội Mỹ chấp nhận quy chế mậu dịch bình thường một cách vĩnh viễn, thay vì phải được đặc miển từng năm. Nếu mọi việc trót lọt, cuối năm nay Việt Nam đã có thể hội nhập trong thực tế, thay vì chỉ nghe lãnh đạo nói đến chuyện hội nhập trong nghị quyết. Phải hơn 30 năm sau chiến tranh mới bơi đến đó là một chuyện đáng buồn, nhưng vẫn được người trong cuộc nổ xâm banh ăn mừng sau khi đạt thỏa thuận nguyên tắc tại Washington vào ngày 14 vừa qua.

Việc thương thuyết với Hoa Kỳ có thể là một bài học cho nhiều người.

Từ đầu năm 2006, Hà Nội đã thèm đạt thỏa thuận với Hoa Kỳ ngay từ kỳ họp thứ 11. Phiá Mỹ chưa muốn Hà Nội làm show nên đòi họp tại Genève không tại Hoa Kỳ. Đến kỳ thứ 12, khi phái đoàn Việt Nam được họp tại Mỹ, chuyện đã chín mùi. Hà Nội sẽ gật, gật lấy gật để. Lại chuyện ông Hồ nửa đêm ký vội với Marius Moutet 60 về trước.

Trong hội nghị, bên nào mà nóng ruột tự đặt ra thời hạn là bên đó "thua". Pierre Mendès-France đã thua tại Genève 1954 theo kiểu ấy. Lần này, Hà Nội hiểu ra rằng kỹ thuật đàm phán cũng áp dụng trong kinh tế, cho kẻ nhập môn.

Sở dĩ nhắc đến chuyện ông Hồ ký vội vì cái không khí đi đêm mờ ám hơn là mờ ảo do Hà Nội tạo ra.

Trong hội nghị Mỹ-Việt vừa qua, hai bên thương thuyết là những ai"

Phiá Hoa Kỳ là Văn phòng của Đại sứ Thương mại. Hoa Kỳ có cơ chế rất dung dị theo lối thực tiễn và được việc. Đại sứ Thương mại là nhân vật ngang hàng Bộ trưởng, hiện diện trong Hội đồng Nội các, dưới quyền chỉ huy của Phủ Tổng thống, được Tổng thống chỉ định với sự phê chuẩn của Quốc hội.

Đây là cơ chế đại diện Hoa Kỳ trong các cuộc thương thuyết về ngoại thương với thế giới và những thoả thuận sau đó phải được Quốc hội thông qua. Hoa Kỳ muốn được việc - tự do mậu dịch - nên trong nội bộ, Hành pháp xin cho cơ chế này được rộng quyền thương thảo, nhưng Quốc hội vẫn trực tiếp giám sát và cơ chế này không thương thảo thay cho Tổng thống Mỹ mà thay cho nước Mỹ.

Vì vậy, Đại diện Thương mại Hoa Kỳ là người làm dâu trăm họ. Trong mọi việc thương thảo, họ phải thu thập ý kiến của tư nhân, doanh giới, của tất cả các bộ liên hệ, từ Ngoại giao, Thương mại, Tư pháp, Quốc phòng, và phải thường xuyên thông báo kết quả với Quốc hội. Nói cách khác, đây là mũi nhọn của nền dân chủ Mỹ khi phải thỏa thuận với bên ngoài, là đại diện chân chính của mọi thành phần liên hệ.

Bên phiá Việt Nam, Bộ Thương mại là đại diện của Chính phủ. Chính phủ là công cụ của đảng Cộng sản Việt Nam và không làm gì nếu không có sự đồng ý của đảng. Viên chức thương thảo không thoát ra khỏi sự kiểm soát của đảng và giám sát của công an. Tội nghiệp cho họ.

Ưu thế của một phe khỏi cần hỏi ý kiến ai trừ thiểu số lãnh đạo của đảng, với một phe chỉ là dại diện cho nhiều thành phần khác nhau, ưu thế ấy có thể giúp Hà Nội trong chính trị. Trong kinh tế, nó là trò khôi hài. Nó là chuyện bi hài: những người liên hệ, doanh nhân, công nhân, nghiệp đoàn và người dân nói chung không hề biết gì về những cam kết hay luật chơi của thế giới, được lãnh đạo thỏa thuận với Hoa Kỳ.

Nói chuyện dân chủ thì lãnh đạo Việt Nam cau mày, nhưng sự lạc hậu của Việt Nam xuất phát từ đấy. Và một bài học mà nhiều người đã thấy ngay tại Hà Nội: phải thông tin cho rõ ràng, minh bạch và mau chóng hơn cho mọi người.

WTO sẽ chấm dứt chế độ bưng bít, đầu cơ thông tin để trục lợi. Một thí dụ là sẽ hết cảnh lén lút chia chác hạn ngạch quota để xuất cảng hàng dệt sợi! Đó là bài học nhập môn của chuyện hội nhập.

Kế tiếp, chúng ta còn nhiều bài học khác.

Lần đầu tiên trong lịch sử, tình trạng phép vua thua lệ làng sẽ phải chấm dứt. Phép vua hay quyền đảng từ nay sẽ thua một uy quyền vô hình mà lớn hơn gấp bội: hệ thống luật lệ quốc tế do các nước WTO tự đặt ra với nhau. Lãnh đạo Việt Nam không thể tiện thiện làm luật theo lối nấu rượu lậu hay chế thuốc gia truyền, vừa làm vừa giấu. Nghĩa là đảng quyền không được khống chế pháp quyền nhà nước và pháp quyền phải trở thành công minh, công bằng minh bạch, được cả thế giới kiểm chứng. Nhờ vậy, may ra người dân sẽ có thêm một chút quyền trong việc soạn thảo luật lệ chi phối cuộc sống của mình - nếu như Quốc hội có xương sống.

Kế tiếp, khu vực xương sống của kinh tế quốc dân - doanh nghiệp nhà nước, kể cả các ngân hàng - sẽ mất thế độc quyền hay được bảo vệ trong hoạt động thương mại. Nếu doanh nghiệp nước ngoài có vào liên doanh với các cơ sở quốc doanh thì họ cũng sẽ áp dụng quy luật thị trường chứ không chấp nhận lề lối kinh doanh theo diện "chánh sách" của nhà nước.

Khi đầu tư vào Việt Nam, các doanh nghiệp ngoại quốc sẽ hết bị hạn chế về nhập cảng và tạo ra sức hút rất cao về nhập cảng nhưng cũng có thể là nhà xuất cảng. Họ vào Việt Nam, sản xuất cho thị trường nội địa (không nhỏ dù còn nghèo) hoặc tái xuất cảng ra ngoài. Trong ngần ấy giai đoạn quản trị, họ tạo thêm việc làm và sự thịnh vượng cho Việt Nam nhưng cũng đòi hỏi luật lệ công bằng minh bạch.

Chẳng những chuyện phù phép bằng phong bì, hối lộ và tham ô, sẽ phải giảm, tình hình cạnh tranh cũng trở nên kịch liệt hơn. Xuất cảng dễ hơn thì cũng phải cạnh tranh mạnh hơn với hàng nhập cảng. Đồng tiền phải có hai mặt và trương mục kế toán phải có hai cột!

Đồng thời, chế độ bao cấp phải lui sân vì mọi trợ cấp thái quá sẽ bị cắt. Người ta chỉ nói đến việc bốn tỷ trợ cấp cho ngành dệt sợi đã phải bỏ mà quên là còn nhiều thứ trợ cấp khác cũng lần lượt lọt vào sổ đen. Tinh thần tựa lưng vào nhà nước nhờ thế lực của đảng sẽ phải chấm dứt dần.

Lúc ấy, ai sẽ tài trợ quỹ đảng"

Việc Việt Nam giong buồm ra khơi sẽ gây rất nhiều đổi thay trong lề lối sinh hoạt, trước tiên là trong guồng máy công quyền, từ chỗ làm luật đến chỗ thực thi luật pháp. Điều ấy tất nhiên đòi hỏi cải cách chính trị và thúc đẩy việc kiện toàn luật lệ: nó sẽ minh bạch hoá nếp sinh hoạt và lề lối quyết định của chính phủ, khiến người dân phải được biết về luật và lệ sẽ chi phối sinh hoạt của mình, sẽ có thêm quyền tự do. Trước tiên, nó giúp cho nhà nước trở thành văn minh hơn và bớt khinh dân.

Marx nói trăm điều hồ đồ mà có một điều lại bất ngờ đúng: sinh hoạt kinh tế mở rộng đang gián tiếp giúp cho sự hình thành của chế độ pháp trị, chế độ cai trị bằng luật pháp công minh. Nhờ vậy mà dân trí sẽ được nâng cao.

Người dân sẽ làm gì với quyền hạn mới thì còn tùy dân khí và… vận nước.

(Ngày Nay - 23, 05, 2006)

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Nga phụ thuộc khá nhiều vào SWIFT với khoảng hơn 300 ngân hàng và tập đoàn tài chánh hàng đầu sử dụng SWIFT, cũng như có người sử dụng cao hàng thứ nhì sau Mỹ khi hơn phân nửa các tổ chức tín dụng Nga sử dụng SWIFT. Trục xuất Nga khỏi SWIFT là cắt mạng "internet" về tài chánh, làm tê liệt các giao dịch, thanh toán của các tổ chức tài chánh của Nga với Châu Âu và thế giới, gây biến động và xáo trộn hệ thống tiền tệ và tài chánh của Nga.
Tô Vĩnh Diện là biểu tượng của anh dũng. Vì đã lấy thân mình ngáng cho khẩu đại bác nặng hai ngàn tấn không rơi xuống vực. Tuy nhiên sau giả tưởng Lê Văn Tám, dân Việt có quyền nghi hoặc: Có thật không hay chỉ là một tai nạn, một vấp ngã hay chính em bé Lê Văn Tám đã lớn lên rồi được cấp chứng minh thư tên là Tô Vĩnh Diện sinh năm 1928 ở xã Nông Trường, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa? Làm sao Triều đình Huế biết đặt những tên xã, huyện đậm chất Cách mạng như vậy vào năm 1928?
331 năm trước Công nguyên, ngay sau chiến thắng Gaugamèles khi tiến vào thành Babylone, đại đế Alexandre nói trước hàng quân: “Chiến thắng này cho vinh quang và tự do”. Võ Nguyên Giáp khó tuyên ngôn như vậy trước lịch sử, vì Điện Biên Phủ không đem đến tự do cho dân Việt mà ngược lại, áp đặt một chế độ tàn khốc. Tự do nào sau đấu tố phi nhân, sau Cải cách ruộng đất, nông dân chỉ có thể cày thuê cho hợp tác xã? Và tự do nào khi dân Bắc di cư rồi dân Nam chạy theo lính Cộng hòa mỗi một khi “giải phóng” vùng “tạm chiếm”? Võ Nguyên Giáp hẳn nhiên muốn giữ lại vế đầu của Alexandre đại đế: “Điện Biên Phủ là một chiến thắng vinh quang.” Tất nhiên và không ai chối cãi, vì lần đầu tiên da vàng chiến thắng da trắng và lần đầu tiên một thuộc địa thắng đế quốc. Nhưng phía sau tấm huân chương là vinh quang cay nghiệt: Đẩy cả một dân tộc vào chiến tranh, mục đích của Hồ Chí Minh là giành độc lập, thống nhất 3 kỳ, nhưng Hiệp định Genève chỉ cho Hồ Chí Minh Bắc kỳ, Nghệ Tĩnh và Quảng Bình,
Khi Tết gần kề, như hiện tại, các diễn đàn thân hữu thường thả cho nghe vài bản nhạc Xuân. Và cứ lập lại khoảng mươi bài quen thuộc, không đủ để khích động tình xuân đang khuấy động trong lòng người chờ đón Xuân. Nhân cơ hội này mình vào lục soạn, tìm thấy quá nhiều bản nhạc về Xuân. Cả một kho tàng văn học nghệ thuật của Miền Nam Việt Nam – loại nhạc Vàng mà CS muốn giết nhưng vẫn sống mạnh và làm thay đổi hướng cảm nhận tình quê hương và lòng người lan rộng từ Nam ra Bắc.
Xin mạn phép mở ngoặc ở đây giải thích ngắn gọn. Trước hết, Ca dao là " những câu thơ của dân gian Việt Nam được truyền miệng dưới dạng những câu hát không theo một điệu nhất định và thông thường được phổ biến theo thể thơ lục bát cho dễ nhớ và dễ thuộc ". Đặc biệt hơn chính ca dao đã để lại dấu vết rõ rệt nhất trong ngôn ngữ văn học Việt Nam. Trong đó phần lớn nội dung ca dao thể hiện tình yêu nam nữ. Ngoài ra còn có các nội dung khác như: quan hệ gia đình, các mối quan hệ phức tạp trong xã hội. Và tóm lại ca dao có thể được hiểu theo nghĩa ngắn gọn là những câu thơ dân gian được truyền miệng từ xưa do tổ tiên ta để lại.
Hoàng Sa (Paracel Archipelago) là một quần đảo gồm khoảng trên 100 đảo nhỏ trên Thái Bình Dương (Biển Đông), giữa kinh tuyến 111 và 113 độ Đông, và vĩ tuyến 15 đến 17 độ Bắc, ngang với vùng bờ biển từ tỉnh Quảng Trị đến tỉnh Quảng Ngãi. Quần đảo nầy gồm hai nhóm: Nhóm phía tây là Nguyệt Thiềm (hay Trăng Khuyết) (Crescent group) và nhóm phía đông bắc là An Vĩnh (Amphitrite group). Trong lịch sử, nhiều tài liệu chứng tỏ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông thuộc chủ quyền nước Việt. Có thể trước hoặc trong thơi Hiên Vương Nguyễn Phúc Tần (cầm quyền ở miền nam sông Gianh từ 1659-1687), chúa Nguyễn lập đội Hoàng Sa, nhiệm vụ ra vào hàng năm theo mùa gió, nhằm kiểm soát và khai thác tài nguyên ở quần đảo nầy. Từ thời nhà Nguyễn, hàng năm, triều đình gởi thuyền ra Hoàng Sa thăm dò rồi trở về. Năm 1835 vua Minh Mạng sai thuyền chở gạch đá, đến xây đền trên đảo Bàn Than (thuộc Hoàng Sa), dựng bia để ghi dấu, gieo hạt trồng cây.
Từ lần xuất bản đầu tiên và duy nhất năm 2001, cuốn sách đã tuyệt bản này là nguồn tư liệu vô giá về một giai đoạn dày đặc biến động của lịch sử Việt Nam thế kỷ 20. Đọc lại những ghi chép của nhà thơ Trần Dần (1926-1997) về thời kì Cải cách Ruộng đất và Nhân văn-Giai phẩm, tôi vẫn kinh ngạc bởi sự thành thực tận cùng, thành thực đến tàn nhẫn khắc nghiệt, của ông với chính bản thân mình. Cuộc vật lộn của ông với thời đại không phải chỉ là một bi kịch từ vị thế nạn nhân mà đa tầng, đa diện hơn nhiều: Ông cũng là một tác nhân và trước hết là một chứng nhân lỗi lạc, với một khả năng quan sát, phân tích, ghi nhận, diễn đạt hiếm có và một lí tưởng sục sôi cháy bỏng với nghệ thuật văn chương.
Lời người dịch: Một trong những câu hỏi mình luôn gặp phải là mọi người đều muốn "hiểu" một tác phẩm, một bản nhạc cổ điển, một tác phẩm điêu khắc, một bức tranh trừu tượng,... Và dù có giải thích rằng chúng ta không cần hiểu thì mọi người vẫn luôn băn khoăn. Một tác phẩm nghệ thuật thường vốn không mang nhiều nội dung ngoài vẻ đẹp của nó, trong âm nhạc là giai điệu (lời hát chỉ là một phần rất phụ), trong tạo hình thì là đường nét và bố cục. Và chúng ta nên thưởng thức nghệ thuật bằng cái nguyên sơ của một đứa trẻ. Thật trớ trêu khi càng có nhiều tri thức, chúng ta lại càng khó tiếp thu nghệ thuật vì suy nghĩ quá nhiều. Tác phẩm của Susan Sontag đã được dịch ra tiếng Việt thì có "Bàn về nhiếp ảnh" do Trịnh Lữ dịch. Một quyển sách mà mọi người yêu nhiếp ảnh hay chỉ thích xem ảnh cũng nên đọc. Và bài tiểu luận "Chống diễn giải" này mình cho rằng với những người nào muốn thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật, hay luôn trăn trở về việc để "hiểu" nghệ thuật thì cũng nên đọc. Vừa để c
LTS: Bài viết sau của cụ bà Đinh Thanh Trang kể về một số kinh nghiệm dùng thuốc Nam, thuốc ta chữa bệnh sau khi bệnh viện và thuốc Tây bế tắc
(Fasting For Physical Rejuvenation)       Mặc dù sự cần thiết của Nhịn Ăn đã được chúng tôi nói đến từ nhiều năm qua.Nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều người chưa biết Nhịn Ăn cách nào"Có lợi ích gì"Có hại gì không"
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.