Hôm nay,  

Wto - Bài Học Nhập Môn Của Hội Nhập

6/2/200600:00:00(View: 3516)

Sau khi mon men mãi ở cửa biển, Việt Nam bắt đầu hội nhập vào luồng trao đổi tự do của thế giới như người giăng buồm ra khơi. Ngoài đại dương sẽ có cá lớn, nhưng cũng có sóng cả...

Triển vọng và rủi ro đều có đấy và có thể thấy trước được từ kinh nghiệm của các nước khác, nếu như muốn chịu mở mắt.

Thực ra, người dân đã mở mắt và muốn biết vì đã từng lấy nhiều rủi ro rồi tạo ra một phép lạ kinh tế khiến chế độ khỏi sụp đổ và giúp cho lãnh đạo nói phét về thành tích đổi mới.

Điều đáng tiếc là lãnh đạo chậm hiểu lại đa nghi, mưu vặt và tự hài lòng quá lâu trong vùng nước lợ ngoài cửa biển. Vì vậy, từ 2004, năm nào cũng thông báo là năm nay sẽ gia nhập WTO mà chuyện không thành. WTO trở thành mục tiêu di động, một tiêu chuẩn chứng tỏ rằng lãnh đạo đã văn minh và Việt Nam đã thành hiện đại. Người ta đã lầm lẫn danh và thực.

Bây giờ, ngày ra khơi đã tới, người dân sẽ được xua ra biển cạnh tranh… chúng ta học được gì từ kinh nghiệm học bài quá chậm ấy của Hà Nội"

Hà Nội nộp đơn xin gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới từ đầu năm 1995 (ngày bốn Tháng Giêng). Mãi đến ba năm sau (Tháng Ba 1998) mới bắt đầu tìm hiểu và đi vào thủ tục thảo luận, rồi từ 2003 mới thực sự "dọn mình" cho chuyến hải hành sau khi đắn đo vừa tiến vừa lùi với Hiệp định Thương mại Song phương ký kết cùng Hoa Kỳ.

WTO là một câu lạc bộ 149 quốc gia cùng thỏa thuận với nhau về nguyên tắc tự do kinh tế và xứ nào muốn gia nhập thì phải tuân thủ những quy tắc đã thống nhất của tất cả các hội viên. Vì vậy mới có việc thảo luận đa phương với nhóm đại diện các hội viên và song phương với những quốc gia có nêu vấn đề.

Trong việc gia nhập, không có chuyện mặc cả là tôi cho cái này nhưng đòi cái khác như trong một thương ước song phương, một hiệp định thương mại giữa hai nước, mà là chuyện tôi hứa tuân thủ những quy định của WTO, chỉ xin thông cảm ở điều kiện thực thi vì hoàn cảnh riêng. Theo kiểu con cá nó sống vì nước…

Việt Nam quen với chuyện "xin-cho", lần đầu phải xin và được cho, với điều kiện.

Cửa ải khó nhất và sau cùng là Hoa Kỳ coi như đã lọt, nay chỉ còn bản văn chi tiết, cầu mong được ký trước khi khai mạc hội nghị cấp Bộ trưởng Thương mại của Diễn đàn Kinh tế Á châu Thái bình dương APEC, sẽ triệu tập tại Hà Nội vào hai ngày đầu tháng Sáu. Sau đấy là hoàn tất việc thương thảo đa phương với WTO vào tháng Bảy này, đồng thời xin Quốc hội Mỹ chấp nhận quy chế mậu dịch bình thường một cách vĩnh viễn, thay vì phải được đặc miển từng năm. Nếu mọi việc trót lọt, cuối năm nay Việt Nam đã có thể hội nhập trong thực tế, thay vì chỉ nghe lãnh đạo nói đến chuyện hội nhập trong nghị quyết. Phải hơn 30 năm sau chiến tranh mới bơi đến đó là một chuyện đáng buồn, nhưng vẫn được người trong cuộc nổ xâm banh ăn mừng sau khi đạt thỏa thuận nguyên tắc tại Washington vào ngày 14 vừa qua.

Việc thương thuyết với Hoa Kỳ có thể là một bài học cho nhiều người.

Từ đầu năm 2006, Hà Nội đã thèm đạt thỏa thuận với Hoa Kỳ ngay từ kỳ họp thứ 11. Phiá Mỹ chưa muốn Hà Nội làm show nên đòi họp tại Genève không tại Hoa Kỳ. Đến kỳ thứ 12, khi phái đoàn Việt Nam được họp tại Mỹ, chuyện đã chín mùi. Hà Nội sẽ gật, gật lấy gật để. Lại chuyện ông Hồ nửa đêm ký vội với Marius Moutet 60 về trước.

Trong hội nghị, bên nào mà nóng ruột tự đặt ra thời hạn là bên đó "thua". Pierre Mendès-France đã thua tại Genève 1954 theo kiểu ấy. Lần này, Hà Nội hiểu ra rằng kỹ thuật đàm phán cũng áp dụng trong kinh tế, cho kẻ nhập môn.

Sở dĩ nhắc đến chuyện ông Hồ ký vội vì cái không khí đi đêm mờ ám hơn là mờ ảo do Hà Nội tạo ra.

Trong hội nghị Mỹ-Việt vừa qua, hai bên thương thuyết là những ai"

Phiá Hoa Kỳ là Văn phòng của Đại sứ Thương mại. Hoa Kỳ có cơ chế rất dung dị theo lối thực tiễn và được việc. Đại sứ Thương mại là nhân vật ngang hàng Bộ trưởng, hiện diện trong Hội đồng Nội các, dưới quyền chỉ huy của Phủ Tổng thống, được Tổng thống chỉ định với sự phê chuẩn của Quốc hội.

Đây là cơ chế đại diện Hoa Kỳ trong các cuộc thương thuyết về ngoại thương với thế giới và những thoả thuận sau đó phải được Quốc hội thông qua. Hoa Kỳ muốn được việc - tự do mậu dịch - nên trong nội bộ, Hành pháp xin cho cơ chế này được rộng quyền thương thảo, nhưng Quốc hội vẫn trực tiếp giám sát và cơ chế này không thương thảo thay cho Tổng thống Mỹ mà thay cho nước Mỹ.

Vì vậy, Đại diện Thương mại Hoa Kỳ là người làm dâu trăm họ. Trong mọi việc thương thảo, họ phải thu thập ý kiến của tư nhân, doanh giới, của tất cả các bộ liên hệ, từ Ngoại giao, Thương mại, Tư pháp, Quốc phòng, và phải thường xuyên thông báo kết quả với Quốc hội. Nói cách khác, đây là mũi nhọn của nền dân chủ Mỹ khi phải thỏa thuận với bên ngoài, là đại diện chân chính của mọi thành phần liên hệ.

Bên phiá Việt Nam, Bộ Thương mại là đại diện của Chính phủ. Chính phủ là công cụ của đảng Cộng sản Việt Nam và không làm gì nếu không có sự đồng ý của đảng. Viên chức thương thảo không thoát ra khỏi sự kiểm soát của đảng và giám sát của công an. Tội nghiệp cho họ.

Ưu thế của một phe khỏi cần hỏi ý kiến ai trừ thiểu số lãnh đạo của đảng, với một phe chỉ là dại diện cho nhiều thành phần khác nhau, ưu thế ấy có thể giúp Hà Nội trong chính trị. Trong kinh tế, nó là trò khôi hài. Nó là chuyện bi hài: những người liên hệ, doanh nhân, công nhân, nghiệp đoàn và người dân nói chung không hề biết gì về những cam kết hay luật chơi của thế giới, được lãnh đạo thỏa thuận với Hoa Kỳ.

Nói chuyện dân chủ thì lãnh đạo Việt Nam cau mày, nhưng sự lạc hậu của Việt Nam xuất phát từ đấy. Và một bài học mà nhiều người đã thấy ngay tại Hà Nội: phải thông tin cho rõ ràng, minh bạch và mau chóng hơn cho mọi người.

WTO sẽ chấm dứt chế độ bưng bít, đầu cơ thông tin để trục lợi. Một thí dụ là sẽ hết cảnh lén lút chia chác hạn ngạch quota để xuất cảng hàng dệt sợi! Đó là bài học nhập môn của chuyện hội nhập.

Kế tiếp, chúng ta còn nhiều bài học khác.

Lần đầu tiên trong lịch sử, tình trạng phép vua thua lệ làng sẽ phải chấm dứt. Phép vua hay quyền đảng từ nay sẽ thua một uy quyền vô hình mà lớn hơn gấp bội: hệ thống luật lệ quốc tế do các nước WTO tự đặt ra với nhau. Lãnh đạo Việt Nam không thể tiện thiện làm luật theo lối nấu rượu lậu hay chế thuốc gia truyền, vừa làm vừa giấu. Nghĩa là đảng quyền không được khống chế pháp quyền nhà nước và pháp quyền phải trở thành công minh, công bằng minh bạch, được cả thế giới kiểm chứng. Nhờ vậy, may ra người dân sẽ có thêm một chút quyền trong việc soạn thảo luật lệ chi phối cuộc sống của mình - nếu như Quốc hội có xương sống.

Kế tiếp, khu vực xương sống của kinh tế quốc dân - doanh nghiệp nhà nước, kể cả các ngân hàng - sẽ mất thế độc quyền hay được bảo vệ trong hoạt động thương mại. Nếu doanh nghiệp nước ngoài có vào liên doanh với các cơ sở quốc doanh thì họ cũng sẽ áp dụng quy luật thị trường chứ không chấp nhận lề lối kinh doanh theo diện "chánh sách" của nhà nước.

Khi đầu tư vào Việt Nam, các doanh nghiệp ngoại quốc sẽ hết bị hạn chế về nhập cảng và tạo ra sức hút rất cao về nhập cảng nhưng cũng có thể là nhà xuất cảng. Họ vào Việt Nam, sản xuất cho thị trường nội địa (không nhỏ dù còn nghèo) hoặc tái xuất cảng ra ngoài. Trong ngần ấy giai đoạn quản trị, họ tạo thêm việc làm và sự thịnh vượng cho Việt Nam nhưng cũng đòi hỏi luật lệ công bằng minh bạch.

Chẳng những chuyện phù phép bằng phong bì, hối lộ và tham ô, sẽ phải giảm, tình hình cạnh tranh cũng trở nên kịch liệt hơn. Xuất cảng dễ hơn thì cũng phải cạnh tranh mạnh hơn với hàng nhập cảng. Đồng tiền phải có hai mặt và trương mục kế toán phải có hai cột!

Đồng thời, chế độ bao cấp phải lui sân vì mọi trợ cấp thái quá sẽ bị cắt. Người ta chỉ nói đến việc bốn tỷ trợ cấp cho ngành dệt sợi đã phải bỏ mà quên là còn nhiều thứ trợ cấp khác cũng lần lượt lọt vào sổ đen. Tinh thần tựa lưng vào nhà nước nhờ thế lực của đảng sẽ phải chấm dứt dần.

Lúc ấy, ai sẽ tài trợ quỹ đảng"

Việc Việt Nam giong buồm ra khơi sẽ gây rất nhiều đổi thay trong lề lối sinh hoạt, trước tiên là trong guồng máy công quyền, từ chỗ làm luật đến chỗ thực thi luật pháp. Điều ấy tất nhiên đòi hỏi cải cách chính trị và thúc đẩy việc kiện toàn luật lệ: nó sẽ minh bạch hoá nếp sinh hoạt và lề lối quyết định của chính phủ, khiến người dân phải được biết về luật và lệ sẽ chi phối sinh hoạt của mình, sẽ có thêm quyền tự do. Trước tiên, nó giúp cho nhà nước trở thành văn minh hơn và bớt khinh dân.

Marx nói trăm điều hồ đồ mà có một điều lại bất ngờ đúng: sinh hoạt kinh tế mở rộng đang gián tiếp giúp cho sự hình thành của chế độ pháp trị, chế độ cai trị bằng luật pháp công minh. Nhờ vậy mà dân trí sẽ được nâng cao.

Người dân sẽ làm gì với quyền hạn mới thì còn tùy dân khí và… vận nước.

(Ngày Nay - 23, 05, 2006)

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Baltimore, nằm ngay trên bờ vịnh Chesapeake Bay thuộc bờ biển Đại Tây Dương, có dân số khoảng 700.000 người. Đó là thành phố, cũng là trung tâm công nghiệp và văn hóa lớn nhất của tiểu bang Maryland. Trong thời gian đầu lập quốc, Baltimore đã từng là một trong ba hải cảng lớn nhất của Hoa Kỳ và nó cũng đã từng đóng góp một phần vô cùng quan trọng trong ngành ngoại thương và phát triển kinh tế cho xứ sở này.
Sau khi nhiều tờ báo tiếng Anh phổ biến bản tin về vụ 4 nguyên đơn, gồm Elisabeth Le, Phuong Le, Lan Tran, và Lien Ta, kiện bị cáo Quyen Van Ho, đạo hiệu Thích Đạo Quảng, trụ trì Chùa Tam Bảo tại thành phố Baton Rouge thuộc tiểu bang Louisiana, tòa soạn Việt Báo đã thu thập được một số bản tin cập nhật và các tài liệu liên quan đến vụ này, gồm lá thư của Bác sĩ tâm lý đã về hưu John W. Pickering gửi cho báo The Advocate, và lá thư ngỏ của Luật sư di trú Roger K. Ward, Esq. gửi cho các Phật tử của Chùa Tam Bảo. Việt Báo trích dịch và đăng lại.
Tầm quan trọng của diaspora hay cộng đồng người gốc Việt sống ngoài Việt Nam càng ngày càng gia tăng. Để có một cái nhìn tổng quát, có tính cách học thuật và khách quan hơn về tình hình chung của diaspora Việt cũng như các diaspora khác trên thế giới, tôi xin giới thiệu và dịch bài viết năm 2005 của Steven Vertovec, một giáo sư đại học Đức chuyên về Xã hội học và Dân tộc học. Sau đây là phần 2, tiếp theo phần 1 (kỳ trước) bàn về các ý niệm và định nghĩa của diaspora. Các điểm liên quan tới Việt Nam sẽ được người dịch ghi chú, bàn luận thêm trong phần chú thích ở cuối bài.
Ngày 2 tháng 8 năm 2022, các cử tri ở Kansas đã chọn chống lại việc lật ngược quyền phá thai theo hiến pháp của tiểu bang. Vài ngày sau, các nhà lập pháp Indiana đã quyết định cấm gần như tất cả các trường hợp phá thai. Cả hai đều là các bang theo xu hướng bảo thủ, và đều ủng hộ nỗ lực tái đắc cử của cựu Tổng thống Donald Trump với tỷ suất gần giống nhau vào năm 2020: 56.1% - 41.5% ở Kansas và 57% - 41% ở Indiana. Vậy điều gì giải thích cho các kết quả khác nhau? Câu trả lời là ở Kansas, cử tri trực tiếp quyết định kết quả. Ở Indiana, thì các nhà lập pháp là người ra quyết định. Sự khác biệt này có ý nghĩa quan trọng, bởi vì đối với các vấn đề gây tranh cãi như phá thai, cũng như trong các vấn đề nổi bật khác, các cơ quan lập pháp tiểu bang không phải lúc nào cũng đại diện cho mong muốn của công chúng, người dân trong tiểu bang của họ.
Làm cách nào để tôi được xóa khoản nợ sinh viên? Ai đủ điều kiện để được tha khoản nợ sinh viên? Liệu các khoản nợ tư nhân có được xóa? Các khoản nợ của sinh viên đã tốt nghiệp có đủ điều kiện để được tha nợ không? Các khoản vay của Parent Plus có đủ điều kiện không? Sinh viên còn đang đi học có đủ điều kiện được tha nợ không? Các khoản vay FFEL có đủ điều kiện không? Chương trình có giới hạn những gì người vay đang còn đi học phải trả không? Tôi có thể vay nợ liền bây giờ và được hưởng theo chính sách mới không? Chính phủ sẽ xác định thu nhập của tôi như thế nào để đủ điều kiện được tha nợ? Tôi nợ hơn 10,000 đô la. Khi nào thì tôi bắt đầu phải thanh toán trở lại? Tôi có phải trả thuế cho khoản nợ sinh viên đã được tha không? Điều này có làm cho lạm phát tồi tệ hơn? Chi phí xóa nợ cho sinh viên là bao nhiêu? Liệu điều này có mang lại lợi ích cho những người Mỹ giàu có không?
Tầm quan trọng của diaspora hay cộng đồng người gốc Việt sống ngoài Việt Nam càng ngày càng gia tăng. Để có một cái nhìn tổng quát, có tính cách học thuật và khách quan hơn về tình hình chung của diaspora Việt cũng như các diaspora trên thế giới, tôi xin giới thiệu và dịch bài viết năm 2005 sau đây của Steven Vertovec, một giáo sư đại học Đức chuyên về Xã hội học và Dân tộc học. Các điểm liên quan tới Việt Nam sẽ được người dịch ghi chú, bàn luận thêm trong phần chú thích ở cuối bài. (HVH)
Những lo ngại về tỷ lệ sinh giảm xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Quyết định của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ trong vụ Dobbs v. Jackson có thể buộc phụ nữ sinh con trái với mong muốn của họ, trong khi một bài xã luận gần đây của Anh thậm chí còn đề xuất đánh thuế đối với những người không có con.
Bản đồ thứ ba về thế giới thời hậu Chiến tranh Lạnh bắt nguồn từ cái thường được gọi là “Lý thuyết Hiện thực” (Realist Theory) về quan hệ quốc tế. Theo lý thuyết này, các quốc gia thực sự là chủ thể quan trọng duy nhất trong các vấn đề thế giới, mối quan hệ giữa các quốc gia là một mối quan hệ hỗn loạn (anarchy), và do đó để đảm bảo sự tồn tại và an ninh của họ, các quốc gia luôn cố gắng tối đa hóa quyền lực của mình. Nếu một quốc gia nhận thấy một quốc gia khác gia tăng quyền lực của họ và do đó trở thành một mối đe dọa tiềm tàng, nó sẽ cố gắng bảo vệ an ninh của chính mình bằng cách tăng cường quyền lực của mình và / hoặc bằng cách liên minh với các quốc gia khác. Những lợi ích và hành động của trên dưới 184 quốc gia của thế giới thời hậu Chiến tranh Lạnh có thể được dự đoán từ những giả định này.
Chủ nghĩa dân tộc là một phong trào hiện đại. Trong suốt lịch sử, con người gắn bó với quê nơi mình sinh ra, với truyền thống của cha mẹ mình, và với các quyền lực lãnh thổ (territorial authorities) đã được thiết lập, nhưng phải đến cuối thế kỷ 18, chủ nghĩa dân tộc mới bắt đầu trở thành một thứ tình cảm nói chung được thừa nhận là ảnh hưởng đến cuộc sống công và tư và một trong những nhân tố quyết định vĩ đại, nếu không muốn nói là vĩ đại nhất của lịch sử hiện đại.
Nước Nhật vừa xót xa tiễn biệt cựu Thủ tướng Shinzo Abe lần cuối. Thi hài ông được đưa qua đường phố Tokyo, ngang qua văn phòng Thủ Tướng và Nghị viện Nhật, nơi ông đã từng làm việc. Ngồi phía trước xe tang vẫn là phu nhân Akie Abe, như khi xe chở thi hài ông về lại Tokyo từ nơi bị ám sát hôm cuối tuần. Lặng lẽ, bình tĩnh, thỉnh thoảng phu nhân Abe lại cúi đầu đáp lễ người dân Nhật đứng đầy hai bên đường, chắp tay lạy và cúi đầu khi xe tang đi ngang. Không như lá thư hư cấu ủy mị gửi chồng của bà bằng tiếng Việt được lan truyền trên mạng, dù những người tinh ý khá dễ nhận ngay ra đó là suy diễn đầy Việt tính của một ai đó muốn lợi dụng cảm xúc đám đông. Thật ra phu nhân Abe là một người như thế nào?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.