Hôm nay,  

Toàn Văn: Thư Của Ht Quảng Độ Gửi 4 Lãnh Tụ Csvn

1/24/200000:00:00(View: 5132)
Liên Minh Việt Nam Tự Do xin được hân hạnh gởi đến quí vị toàn văn lá thư ngày 15/01/2000 của Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, gởi cho những người lãnh đạo của nhà cầm quyền Hà Nội để yêu cầu trả tự do cho mọi tù nhân lương tâm và chính trị; giảm thuế cho nhân dân; phục hồi quyền hoạt động của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất; và hủy bỏ án tử hình.
Chúng tôi kêu gọi quí vị góp phần phổ biến rộng rãi lá thư này.
Paris ngày 22 tháng 1 năm 2000
Liên Minh Việt Nam Tự Do


Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Viện Hóa Đạo
PL.2543 Số 16 - VHĐ/VT
Sài Gòn, Ngày 15 tháng 1 năm 2000

Đồng kính gửi:
Ông Lê Khả Phiêu, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
Ông Trần Đức Lương, Chủ tịch nước CHXHCNVN
Ông Phan Văn Khải, Thủ tướng Chính phủ CHXHCNVN;
và Ông Nông Đức Mạnh, Chủ tịch Quốc hội CHXHCNVN

Thưa quý Ngài,
Tôi còn nhớ rõ đầu năm 1946, lần đầu tiên đồng bào Phật giáo tổ chức lễ Giổ Tổ Hùng Vương. Nhân dịp này đồng thanh gửi bức điện tín cho đồng bào đang kháng chiến ở Nam Bộ: “Kính chúc và ủy lạo hết thảy các anh chị em nhất tâm dũng mãnh tinh tiến, kháng chiến đến cùng giành độc lập cho nước Việt Nam ta và thực hiện chủ nghĩa từ bi cứu thế cho các nước văn minh cùng biết”.
Tôi còn nhớ rõ tháng 4 năm 1946, “Việt Nam Phật Giáo Hội” được thành lập, với mục đích liên kết Phật giáo đồ cùng với đồng bào cả nước “chống ba thứ giặc là: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”.
Tôi cũng còn nhớ hôm 30.8.1947, nhân ngày Rằm tháng Bảy âm lịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gủi Hội Phật Tử Việt Nam, trong có câu rằng: “Nước có độc lập, thì đạo Phật mới dễ mở mang. Bọn thực dân Pháp muốn cướp nước ta. Chúng đốt chùa chiền, phá tượng Phật, hành hạ Tăng Ni, tàn sát đạo hữu. Chúng hòng phá tan đạo Phật. Đức Phật là Đại Từ Bi, Cứu khổ Cứu nạn. Muốn cứu chúng sinh khỏi khổ nạn, Người phải hy sinh tranh đấu diệt lũ ác ma”.
Những điều tôi nhớ trên đây là những bằng chứng lịch sử còn ghi lại trên báo chí thời ấy, đặc biệt trên báo Cứu quốc. Nhắc lại mấy sự kiện này, ý tôi muốn nhấn mạnh đến ba điều. Thứ nhất là ý chí và tâm thành của quần chúng Phật tử đối với nền độc lập dân tộc và an lạc cho mỗi con người. Thứ hai là nhấn mạnh đến ngôn ngữ cùng hành động đặc thù của người Phật tử, thuật ngữ gọi là chính ngữ và chính trị kiến, thể hiện qua hành động xã hội và bảo vệ quốc gia trong việc dẹp ba thứ giặc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Thứ ba là hoàn cảnh của các tôn giáo nói chung. Phật giáo nói riêng, thời nạn ngoại xâm còn hoành phá quê hương.
Trong ba thứ giặc mà Phật giáo đồ cùng toàn dân đứng lên đạp đổ từ năm 1945, giặc ngoại xâm được thanh toán. Còn giặc đói, giặc dốt vẫn hoành hành như cũ. Đừng trách nhân dân và Phật giáo đồ lùi bước trước hai nạn giặc này, mà phải quy trách nhiệm cho các nhà lãnh đạo đất nước ngăn cản các thành phần dân tộc hoàn tất việc thanh toán giặc đói và giặc dốt.
Nghiêm trọng hơn, lời tiên liệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết ngày Rằm tháng Bảy năm 1947 không xảy ra. Tuy nước có độc lập, nhưng đạo Phật không được mở mang. Từ trước tại miền Bắc, và sau năm 75 tại miền Nam, chùa chiền bị Đảng và Nhà nước chiếm dụng, tượng Phật bị phá hủy. Tăng Ni và Phật tử bị hành hạ, tù đày, tàn sát. Cả một chính sách từ hành xử đến luật pháp hòng phá tan đạo Phật. Bởi thế, từ 25 năm qua, các phong trào vận động cho nhân quyền và tự do tôn giáo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, do Đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang lãnh đạo chỉ thực thi điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh 53 năm trước: “Muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn phải hy sinh tranh đấu”.
Nhân đây tôi cần đính chánh một ngộ nhận về danh xưng “Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất”, mà Đảng và các cơ quan công quyền thường mắc phải. Chữ “thống nhất” không hàm riêng nghĩa đen là cộng lại các tổ chức, hệ phái, cộng lại các cơ sở vùng miền mà lý do thời cuộc tạm phân chia. Nghĩa đen này, Phật giáo Việt Nam đã hoàn tất và nhất thống từ 2000 năm qua. Chữ “thống nhất” trong danh xưng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, mang ý nghĩa rốt ráo và vô cùng hệ trọng. Vì nó bao hàm tính phát triển đặc thù, có một không hai của đạo Phật Việt Nam trên phương diện giáo lý giác ngộ và cứu khổ quần sinh, so với các nền Phật giáo trên thế giới. Trên mặt giáo lý, thống nhất là thống nhất hai phương hướng hành đạo Bắc tông và Nam tông, còn gọi là Đại thừa và Nguyên thủy. Sự thống nhất như thế, mới xảy ra lần đầu tại nước Việt Nam vào thập niên 60, do chính bằng lực trí tuệ của người Phật tử Việt Nam. Trên mặt dân tộc và xã hội, thống nhất là loại trừ lối phân biệt kỳ thị sai lầm, phi Phật giáo, thoát thai từ những khái niệm nhị biên quốc tế, để thống nhất giữa Đạo và Đời, giữa chư Tăng Ni với đại khối nam nữ Cư sĩ Phật tử. Thống nhất như thế là bước tiến mới trong tư tưởng và hành động đặc thù của đạo Phật Việt Nam. Không thống nhất theo quy trình này, tranh chấp sẽ tồn tại, căm thù còn chồng chất, lưỡng cực cứ phân chia, mà hậu quả khổ đau nhân dân phải gánh chịu.
Vì vậy, từ ngộ nhận trên mặt ngữ nghĩa đến lợi dụng quyền hành hủy bỏ chữ Thống nhất và ngăn cấm Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất sinh hoạt tín ngưỡng, là đi ngược lại sự tiến hóa về tư tưởng và hành thế của một tôn giáo có mặt từ 20 thế kỷ qua trên đất nước này, đồng lúc đi ngược sự tự do tín ngưỡng của quần chúng Phật tử Việt Nam.
Nhân dịp Tết Canh Thìn sắp đến, tôi có ba điều thỉnh nguyện xin được quý Ngài lưu tâm thực hiện:
Tết là mùa đại hoan hỉ, đại đoàn tụ của dân tộc. Theo truyền thống nhân hậu của nền văn hiến Việt, mà nhiều triều đại hoàn kim thường thực hiện trong quá khứ lịch sử. Đó là việc tha tù và giảm thuế. vậy tôi kêu gọi Đảng và Nhà nước trả tự do cho tất cả tù nhân vì lương thức và tù nhân chính trị, bị tù đày vì bất đồng chính kiến hoặc biểu tỏ ôn hòa tín ngưỡng hay tôn giáo của họ. Đặc biệt trả tự do cho Đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang. Xử lý thường vụ Viện Tăng Thống, năm nay 83 tuổi, bị giam cầm quản chế không lý do từ 18 năm qua.


Nước ta có luật lệ và tôn trọng luật pháp rất sớm. Khi Mã Viện đến xâm chiếm nước ta, đầu thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch, đã điều tấu về vua Tàu rằng “luật của người Việt, so sánh với luật Hán hơn 10 điều”. Bộ “Quốc triều Hình luật” dưới đời Lê, vào thế kỷ 15, được các nhà luật học Âu Mỹ khen là một “hệ thống luật pháp tiến bộ so với những quan niệm pháp luật phương Tây cận đại”. Tinh thần nhân đạo và trọng người tài rất cao trong bộ Quốc triều hình luật. Điều 3, đề ra 8 điều được nghị xét giảm tội, đáng kể là nghị hiền, là những người có đức hạnh lớn, và nghị năng, là những người có tài năng lớn. Điều 16 quy định những người từ 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống cùng những người bị phế tật, phạm từ tội lưu trở xuống đều được miễn giảm và cho chuộc bằng tiền.
Thế mà ở thời đại văn minh tân tiến đầu thế kỷ 21 này, tại nước ta người bị tù tội trên tuổi 70 hay trẻ em dưới 15 tuổi bị giam nhốt quá đông trong các nhà tù và trại cải tạo. Nhiều trường hợp không được xét xử hoặc xét xử bất minh, phi luật pháp.
Ngoài ra, không thể quên rằng tám mươi phần trăm dân số nước ta là nông dân, hiện đang lâm cảnh đói khổ cùng cực, vì kinh tế suy sụp, vì sưu cao thuế nặng chồng chất. Tôi xin quý Ngài nhân dịp Tết ban bố việc giảm thuế cho nhân dân được nhờ.
Trên đây là thỉnh nguyện thứ nhất.
Thỉnh nguyện thứ hai, yêu cầu Đảng và Nhà nước để cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất phục hồi quyền sinh hoạt tự do. Ngoài lý do tôn giáo của một Giáo hội dân lập nhằm hướng dẫn tu học cho quần chúng Phật tử, còn là lý do cứu nguy cấp thiết để chận đứng các chủ trương mê tín, tệ nạn xã hội, và suy thoái đạo đức đang hoành hành nước ta, đặc biệt trong thế hệ trẻ. Tiềm lực và hiệu lực của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là một thực tế lịch sử, trên mặt quốc gia cũng như quốc tế, có thể đóng góp hữu hiệu cho việc tái thiết đất nước trên các lãnh vực văn hóa, giáo dục, xã hội, kinh tế.
Tôn giáo là thực tại thiêng liêng của con người. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là nền tảng đạo lý, chứ không là hội đoàn thường tình được lập lên hay xóa bỏ như một công cụ nhất thời của chính trị.
Thỉnh nguyện thứ ba, yêu cầu Đảng và Nhà nước noi gương các nước văn minh trên thế giới bãi bỏ án tử hình.
Đành rằng nền pháp trị phải có những án lệnh để răn đe. Nhưng án tử hình không là thượng sách để chữa trị các tệ đoan xã hội. Thượng sách chính là sự ngăn ngừa bằng giáo dục và đức trị. Từ mấy năm qua, trung bình mỗi năm có từ 60 đến 100 án tử hình. Điều thấy rõ, là không nhờ các án tử hình răn đe này, mà nạn tham nhũng, nạn buôn xì ke ma túy, cướp của, giết người được giảm thiểu. Thế thì phải tìm căn do từ gốc mà chữa trị. Việc gốc phải nhờ đến đạo lý và giáo dục. Đạo lý không phô bày qua hình thức, như hiện nay dàn dựng qua các lễ hội gọi là truyền thống nghi ngút khói hương và áo quần sặc sỡ, cốt thu hút khách du lịch đồng thời phát triển dị đoan mê tín như một chính sách ngu dân. Đạo lý phải là sự phát triển tự do của những nền tín ngưỡng lâu đời dung hòa với nếp sống văn minh hiện đại. Giáo dục không thể chìm đắm như hiện nay trong mục tiêu duy ngã vụ lợi và chủ nghĩa kim tiền, biểu thị cho ý thức hệ chà đạp nhân phẩm.
Hai ngàn năm trăm năm trước, Đức Phật từng dạy qua nhiều bộ kinh, rằng “sự nghèo khổ là mẹ đẻ của vô luân và tội ác, như trộm cướp giết người”. Nên Đức Phật chỉ bày cho Phật tử cách làm ăn kinh tế, cách chi tiêu và tiết kiệm, tạo lập sự thành công, thịnh vượng trong xã hội làm phương tiện hoằng pháp, cứu cấp nhân dân.
Từ các thập kỷ 50 đến 80, Đảng và Nhà nước dựa vào viện trợ của phe Xã Hội Chủ Nghĩa mà sống. Nay khối Xã Hội Chủ Nghĩa ấy tan vỡ, Đảng và Nhà nước phải dựa vào khối tư bản Âu Mỹ. Việc thế sự như thế là chuyện bình thường. Nhưng điều quan tâm là đại đa số quần chúng cứ phải kéo dài sự hy sinh trên năm thập kỷ qua mà không thấy sinh lộ cho một đời sống no ấm và tự do. Hy sinh thân mạng và tài sản để giữ nước dưới các triều đại dân tộc Lý, Trần, Lê, nhân dân không oán than mà còn tích cực tham gia. Nhưng hy sinh dưới chế độ công an trị, dưới chế độ không tôn trọng nhân quyền và chính sách khủng bố nhân danh “đấu tranh giai cấp” thì chẳng còn ai thông cảm được.
Hoàn cảnh hiện nay là miếng đất mầu mở cho nạn tham nhũng, ma túy, trộm cắp, giết người phát triển. Có tuyên hàng trăm, hàng ngàn án tử hình cũng không thể giải quyết hoặc làm thối chí kẻ gây tội.
Điều 6 trong bản Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị của Liên Hiệp Quốc, mà Việt Nam ký kết tham gia, có ghi rõ “Mỗi người đều có quyền được sống với sự sống vốn có. Quyền này được pháp luật bảo vệ. Không ai được phép độc đoán tước đoạt mạng sống của bất cứ người nào”. Tiếc thay, Việt Nam chưa chịu ký kết tham gia nghị định thư số 2 liên hệ công ước nói trên và có hiệu lực từ ngày 11.7.1991, qua đó điều 7 quy định: “Không còn ai (thuộc các quốc gia ký nghị định thư) bị tử hình. Quốc gia sẽ dùng mọi biện pháp để bãi bỏ án tử hình trên lãnh thổ mình”.
Vì vậy tôi mong mỏi quý Ngài sớm lấy quyết định bãi bỏ án tử hình. Đối với hiện trạng ở nước ta, án tử hình mang trong nó hai mầm mống nguy hại, phi nhân bản. Bất sát, không giết người, là tinh túy của nền đạo lý Đông Phương. Cho nên, lưu án tử hình là thất nhân tâm và đi ngược đạo lý truyền thống. Lại nữa, trong một quốc gia chưa tôn trọng pháp quyền, chưa chấp nhận tam quyền phân lập như nước ta, việc xử án bất minh dẫn đến hành động giết người vô tội hay không đúng tội. Cho nên, lưu án tử hình là gây nhân không tốt làm gia tăng hậu quả của tội ác.
Lời ngay thật đầu năm của kẻ tu hành, mong các Ngài lưu tâm giải quyết, để nước Việt bắt kịp kỷ nguyên mới của thế giới năm 2000. Một thế giới vừa thủ tiêu xong thế lưỡng cực phân tranh, khiến cho nhìn đâu cũng chỉ thấy kẻ thù phải thanh toán, tàn sát, thay vì đón nhận tứ hải giai huynh đệ, hay tay bắt mặt mừng với người cùng nòi giống phải cưu mang.

Trân trọng kính chào quý Ngài.
Viện trưởng Viện Hóa Đạo Sa môn Thích Quảng Độ (ấn ký)

Bản sao:
- Kính gởi Viện Tăng Thống để kính thẩm tường
- Văn phòng II Viện Hóa Đạo GHPGVNTN tại Hoa Kỳ để thẩm tường
- Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế tại Paris để phổ biến
- Lưu hồ sơ

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Theo thói quen đa số người Việt gốc miền Nam Việt Nam đều chỉ trích Hoa Kỳ, đặc biệt là Đảng Dân Chủ, đã bỏ rơi VNCH. Tin tưởng này được tăng cường bởi những lập luận thiếu căn bản dựa trên những tài liệu thiếu cập nhật của những cố vấn cũ của ông Nguyễn Văn Thiệu. Ít người có can đảm và tính chất vô tư để nhìn vào sự thật...
“Trung Cộng muốn đưa quân tràn qua biên giới Việt Nam để đánh lạc hướng và cầm chân quân đội Bắc Việt, ngăn chận cuộc tổng tấn công Miền Nam đang tiến hành,” Phụ Tá Tổng Trưởng Quốc Phòng VNCH, ông Bửu Viên nói với chúng tôi ngay sau cuộc rút quân khỏi Pleiku (15/2/1975). Ít lâu sau, lại được nghe Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc cho biết sau một cuộc Họp Nội Các, rằng: “TC có liên lạc và đề nghị một kế hoạch để tiếp cứu VNCH, nhưng TT Thiệu đã từ chối.” Vào thời điểm ấy thì chúng tôi cho rằng câu chuyện TC muốn can thiệp để ngăn chận cuộc tấn công của BV là hoang tưởng, viển vông nên không để ý, và sau này cũng quên không hỏi thẳng TT Thiệu.
Vào thế kỷ 18, Đảng Dân Chủ Cộng Hòa (Democratic Republican Party) được gọi tắt là Cộng Hòa (Republican) hoạt động ở Hoa Kỳ do Thomas Jefferson và James Madison thành lập, nhằm chống lại chủ trương và chính sách của Đảng Liên Bang (Federalist Party) lãnh đạo bởi Luật Sư Alexander Hamilton hoạt động mạnh về kinh tế, xã hội, ngoại giao...
Các di tích bằng đá gọi là megalith rải rác khắp nơi trên thế giới, tiếng Việt gọi là “cự thạch” (“cự” có nghĩa là lớn như trong cự phách, cự đại, cự phú, dịch prefix mega; thạch là đá)...
LTS. Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, nguyên Tổng Trưởng Kế Hoạch VNCH, là người được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ủy thác nhiều công việc trong những ngày tháng cuối, trước khi Sàigòn sụp đổ . Tại Hoa Kỳ, sau 1975, ông là tác giả nhiều cuốn sách được phổ biến rộng rãi như "Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập", "Khi Đồng Minh Tháo Chạy", "Khi Đồng Minh Nhảy Vào", và sắp xuất bản cuốn BỨC TỬ VNCH - KISSINGER VÀ 8 THỦ ĐOẠN NHAM HIỂM. Bước vào tháng Tư, mời đọc bài bài viết đã đăng trên báo xuân Việt Báo Ất Dậu (2005), vừa được tác giả gửi lại bản có hiệu đính.
Mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ riêng và chưa có bảng thống kê về ngôn ngữ, kể từ khi có mặt loài người sống trên hành tinh trái đất này. Có hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn ngôn ngữ khác biệt nhau, và chưa có ai qủa quyết con số chính xác về ngôn ngữ từng được sử dụng trong lịch sử phát triển của xã hội con người...
Cho dù Hoa Kỳ trong thế yếu không còn thúc đẩy Trung Quốc dân chủ hóa nhưng bù lại cả hai chính quyền Bush (con) và Obama đều bang giao với Trung Quốc như một đối tác trách nhiệm (responsible party). Thực tế trái ngược vì tham vọng địa chính trị của Bắc Kinh tăng theo đà phát triển kinh tế nên Trung Quốc không còn muốn nép mình trong trật tự thế giới tự do (liberal world order) do Mỹ lãnh đạo...
Tháng Ba là tháng vinh danh những đóng góp của người phụ nữ cho xã hội, không chỉ ở Hoa Kỳ mà còn ở nhiều nước khác. Nhà văn người Anh Charlotte Brontë (1816-1855) đã viết trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của bà “Jane Eyre,” được xuất bản vào năm 1847, rằng, “Tôi không phải là chim; và không có cái lưới nào bẫy được tôi: Tôi là một con người tự do với ý chí độc lập.”Charlotte Brontë đã khai hỏa trên mặt trận văn chương cho cuộc chiến kéo dài hàng nhiều thế kỷ để đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ trong xã hội mà tới hôm nay vẫn chưa thực sự chấm dứt. Những thanh thiếu nữ tại Afghanistan đã và đang bị cấm thừa hưởng nền giáo dục học đường mà đáng lý ra các em phải có được! Nhưng, không phải chỉ ở thời đại của tác giả “Jane Eyre” người phụ nữ mới gióng lên tiếng nói tự do và độc lập mà trong lịch sử nhân loại từ xưa tới nay người phụ nữ đã bao lần lên tiếng, xuống đường để tranh đấu cho tự do và độc lập của họ cũng như của xã hội và đất nước họ.
Vào thập niên 1970 kinh tế và dân số Ấn Độ và Trung Quốc tương đương với nhau nhưng rồi 30 năm sau đó tăng trưởng bên Tàu vượt xa Ấn. Nếu so sánh Trung Quốc với nhiều nước đang mở mang khác như Ai Cập, Brazil, Indonesia…kết quả đều tương tự. Câu hỏi đặt ra nơi đây tại sao tham nhũng ở Trung Quốc không cản trở tăng trưởng, mà trái lại nền kinh tế bốc hỏa nhanh chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại?
Vào đầu thế kỷ 20, xã hội Nga cũng tương tự như xã hội Pháp trước cuộc cách mạng 1789 vậy. Một mặt triều đình thối nát, công quỹ kiệt quệ. Mặt khác giáo hội Chính Thống Giáo cũng liên kết với vương quyền và giới quý tộc bóc lột người dân. Cuộc cách mạng lật đổ Nga Hoàng năm 1917 không phải hoàn toàn, hoặc chủ yếu, do người Cộng Sản Bolshevik. Cũng như cuộc cách mạng Pháp và những cuộc cách mạng khác, thành quả có được là do sự đóng góp của nhiều cá nhân và đảng phái khác nhau. Tuy nhiên tổ chức nào nghiêm túc, chặt chẽ và kỷ luật sẽ nắm được thế thượng phong...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.