Hôm nay,  

Nhạc Trong Tù

21/12/202213:18:00(Xem: 3365)



Ai trong chúng ta khi vào trong nhà tù lớn nhỏ của cộng sản mà lại không nhiều lần ngân nga, hát nho nhỏ trong miệng những bản nhạc quen thuộc, hay đôi khi chỉ ư e những âm điệu bổng đến khi nhớ về người thân. Đôi khi, lợi dụng lúc được thăm nuôi, tình trạng chung có phần cởi mở đôi chút, từng nhóm nhỏ tù nhân ngồi xoay tròn bên nhau, chia nhau chút quà, san sẻ niềm vui được thương yêu, ca hát nho nhỏ cho nhau nghe. Đa số những bản nhạc thuộc loại tình cảm, mà CS kêu là nhạc vàng, cấm đoán vì cho chúng là đồi trụy, phản cách mạng. Đặc biệt có nhiều bạn tù rất tài hoa, không những hát hay, giạng hát rất tình cảm mà lại còn thuộc lời của nhiều bản nhạc, thường tự động thay phiên nhau trình diễn với cả tấm lòng, như thầm muốn gởi lời ca tiếng hát đến cho người mình yêu thương ở nơi xa. Trong những bản nhạc  diễn tả tâm trạng buồn như thương nhớ người yêu, những kỷ niệm của đôi lứa, hoặc về thất tình, lo sợ mất người yêu, thường được hát nhiều là những bản như “Tôi Đưa Em Sang Sông”, “Sang Ngang”, “Kỷ Vật Cho Em”, “Tình Ca Người Mất Trí”, “Mùa Xuân Không Còn Nữa”…

Ai cũng biết trong trại tù luôn có những antennes rình rập, sẵn sáng bán linh hồn mình để mong được cho về sớm. Chuyện ca hát trong trại tù không thể nào kín đáo dù xẩy ra trong góc độ nhỏ của từng nhóm nhỏ, thường trong chiều tối trước giờ đi ngủ, nên có trường hợp vài bạn tù hay hát hoặc hát hay được quản giáo “mời” lên làm việc. Cho dù có bị cảnh cáo nặng nhẹ như thế nào, họ tỏ vẽ e dè đôi chút trong vài tuần ban đầu, nhưng với thời gian họ từ từ ca hát lại, riêng cho mình rồi cho nhóm - y như trước. Rỏ ràng tinh thần tự do và văn nghệ luôn song song với nhau, khó mà giết chết được cả hai, cho dù trong tù tội hay bị cấm đoán. Không biết những bạn tù thích hát đó có thuộc thành phần tâm lý chiến, chiến tranh chính trị hay chỉ là những chàng không quân lãng mạn, nhưng khi chuyển trại, họ thường bị phân loại đi chung với nhau.

Một bạn tù phạm kỷ luật, bị nhốt trong thùng connect nằm trong khu vực chỉ huy của trại. Anh ta không la hét, anh không chưởi rủa, nhưng anh ta cũng không câm lặng. Anh hát. Và hát. Hát rất nhiều bản nhạc tình, toàn là những tình ca từng nổi tiếng của Miền Nam, kể cả những bản nhạc về lính. Ban ngày anh im lặng. Nhưng khi trời bắt đẩu tối, anh lên giọng hát. Tiếng anh hát vang xa trong cả trại, bay vút lên không gian, rồi tỏa ra như một thôi thúc bất tận trong lòng cả mấy trăm tù nhân – mặc những tiếng la mắng của bọn lính cảnh vệ, và tiếng dộng vào vách sắt thùng connect. Các bạn tù nằm nghe anh hát mà lòng đau đớn, ngưỡng mộ tinh thần bất khuất của anh xử dụng tiếng hát của một kẻ sĩ chống đối với kẻ dữ. Tiếng hát của anh yếu dần sau đêm thứ tư và sau đó tắt hẳn. Chúng tôi không biết anh sống chết hay bị chuyển đi nơi khác.

Giữa những thiếu thốn vật chất, những dằn vặt thương nhớ vợ con, những đày ải cơ cực của lao động, người tù thường bảy tỏ tâm tình bằng cách làm thơ hay sáng tác nhạc. Trong những bạn tù tôi quen không có bạn nào đủ trình độ để sáng tác thơ nhạc. Như trường hợp thi sĩ Nguyễn Chí Thiện sáng tác tập thơ Hoa Địa Ngục, hay thi sĩ Tô Thùy Yên sáng tác bài thơ “Tháng Chạp Buồn” trong tù (nhờ nhà văn Phạm Tín An Ninh thuộc nằm lòng nên ghi viết lại toàn bộ sau khi đi tù về). Với đa số còn lại, tù nhân thường hướng đến niềm tin tín ngưỡng của mình để sống sót. Chính những lúc ấy, lòng tôi thôi thúc đọc kinh cầu nguyện cho vợ mình, cho người thân của mình, cho mình sống sót trong chốn lao tù vô vọng. Để nhớ lại những tiếng chuông quen thuộc của nhà thờ Phủ Cam, những lần đi lễ cùng gia đình, nhất là lễ bằng tiếng Latin tại Đan Viện Thiên An với giọng hát trầm trầm của các cha, các thầy ca tụng Thiên Chúa vang lên trong ngôi nhà thờ đá, giữa tiếng thông reo bên ngoài của núi rừng. Và nhớ tiếng hát đăc biệt thánh thiện của ca đoàn “gia đình trị” của anh Lê Văn Danh, sau này tốt nghiệp khóa 2 Y Khoa Huế, trong đó người cha vừa là nhạc trưởng vừa chơi đờn organ, bà mẹ giọng ca chính, các anh em trai hát bè nam, các chị em gái, bè nữ, tại nhà thờ Phan Xi Cô, Huế.



Chúng tôi, ba bạn tù nằm gần nhau, gồm Hoàng Văn Tân (RIP, 2016), Hồ Xuân Tịnh (Orange County) và tôi nằm giữa, cùng rủ nhau đọc kinh mỗi tối, sau tiếng gọi nhắc nhở hay thúc cùi chỏ của bạn Tân với câu “huynh, đọc kinh với đệ” đều đặng lập lại mỗi đêm cho đến lúc chuyển trại. Thỉnh thoảnh chúng tôi còn ư e trong miệng bản nhạc Sao Biển vì không thể thuộc hết lời, ngoài mấy câu “Lạy Mẹ là ngôi sao sáng, soi lối cho con lúc vượt biển thế gian – Lạy Mẹ là ngôi sao sáng, soi lối cho con lúc về nơi phúc nhàn – Sống chết con trông chờ, bao nhiêu sức hộ phụ, lòng Mẹ sẳn sàng mà đoái đến con, giúp con đưa con về tới bến. Đưa con tới Thiên Đàng…”. Về sau, khi chòng chành trên tàu vượt biên, tôi lại hát thầm “Thân lạy Nữ Vương, Mẹ thấu tình con, sóng va tư bề, thuyền con sắp chìm, hầu theo nước xuôi dòng…”

Sau nhiều tháng lắng nghe các bạn tù hát, tôi bỗng nhận thấy chưa nghe mấy ai huýt gió bất cứ bản nhạc nào. Trong thời trung học và sau này đại học, tôi thường xuyên tu tập huýt gió có lẻ vì hồi đó chưa quen hát hoặc vì mở miệng hát thì bị chê đè, nên tiếng huýt gió của tôi có phần tiến triển và mạnh dần. Bấy giờ huýt sáo được cho là cao bồi, nhưng không vì vậy mà tôi bỏ cuộc mà tiếp tục huýt. Khi vào lính, lại huýt nhiều hơn vì huýt gió có vẻ làm tăng tính phong trần của một chàng trai hoa dù mũ đỏ - tôi nghĩ như vậy. Tại Hải Ngoại, tôi chỉ thấy duy nhất ca sĩ Elvis Phương có huýt gió trong vài bản nhạc. Sau vài tháng quen thuộc trong tù cải tạo, tôi bắt đầu huýt gió, nhẹ nhàng, nho nhỏ, cho chính mình nghe, và có thể cho vài bạn tù gần gủi. Cứ như vậy, đôi khi ngồi một mình, trong khi lao động, giữa những lúc nghỉ lao động, trong nổi nhớ nhà, tôi lại huýt gió những bản tình ca. Có vẻ vì giữa núi rừng và thiên nhiên, tiếng huýt gió – nhất là với nhạc huýt gió trong phim cao bồi “The Good, The Bad And The Ugly” của tài tử Clint Eastwood, và trong phim Cầu Sông Kwai, hay trong phim “The Longest Day” – của tôi có phần quyến rũ chăng, nên các bạn tù cũng dễ dãi có lời khen. Vả lại, vì không lời, nên cảnh vệ đi theo canh tù cũng khó hiểu bài gì, và antennes cũng khó kết tội và báo cáo.

Trong nhũng bài thuộc loại thánh ca, ngoài bài Sao Biển mà tôi thường huýt gió bất kể khi nào, tôi còn huýt gió các bài Trên Con Đường Về Quê Mà Vắng Bóng Mẹ, Năm Xưa Trên Cây Sồi, Kìa Bà Nào, Ave Maria, Cao Cung Lên… Đặc biệt trong 2 lần Giáng Sinh ở trại tù và một lần Giáng Sinh trong nhà tù Chí Hòa, tôi cũng nhớ đến hiện thực và dâng lới cầu nguyện của mình bằng cách ư e trong cổ họng, hay huýt gió các bài Mon Beau Sapin, Hang Belem (đêm dông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá nơi máng lừa) và bài Đêm Thánh Vô Cùng (Silent Night) cùng với Bài Thánh Ca Buồn – mà tôi cho là hay nhất trong các bản nhạc vừa đạo vừa đời.  

 Đức tin Công Giáo đã giúp tôi vững mạnh tinh thần để sống vững qua thời chinh chiến, qua thời tù cải tạo cũng như vượt qua những trần ai trong vượt biên và những năm tháng làm lại cuộc đời tại nước người, đến tận bây giờ và hy vọng mãi về sau. Những thánh ca quan trọng không kém khi hợp lực đưa tâm hồn hướng về Chúa. Và những gì tôi không thực hiện được bằng giọng hát của mình, tôi đã huýt gió để đưa khúc ca thoáng theo trời xanh.

“Ngài đã giúp tôi bước tiếp dù từng vấp ngã

 Ngài cho tôi hy vọng dù đã từng thất vọng

 Ngài cho tôi ánh sáng khi tôi đang bước trong bóng tối

 Ngài giúp tôi sống lạc quan dù trong mọi hoàn cảnh bi quan”

 

Cuối cuộc đời thì tiếng huýt gió của tôi, nhất là những khi ngồi bên nhau trong xe, là một trong những tài năng mà vợ tôi có thể thưởng thức và góp lời khuyến khích. Mong có ngày tôi sẽ huýt cho bạn nghe.

Vĩnh Chánh,

Tháng 12, 2022

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Dịch thơ, nói theo Bùi Giáng, là “điều khảm kha nhất” và đó phải là thơ hay bởi, trừ những ngoại lệ đặc biệt, chẳng dịch giả nào phí thì giờ với thơ dở. [1] Sự “khảm kha”, như thế, phải thuộc về cái nghệ thuật chuyển đạt, sao cho giữ được hồn cốt làm nên cái hay của bài thơ trong một ngôn ngữ khác.
Phòng triển lãm "For Me and You" ở Gallery One trưng bày các tác phẩm nghệ thuật đa ngành của Ann Phong và Gloria Gem Sánchez trình bày sự giống nhau về ý tưởng của hai họa sĩ Ann Phong và Sanchez khi cả hai đều sử dụng vật liệu hỗn hợp tạo dựng tác phẩm để phản ánh sự suy nghĩ về cách sống, cách quản lý môi trường của chúng ta đồng thời thu hút sự chú ý đến tác động chung của chúng ta đối với hệ sinh thái mà chúng ta đang sinh sống và truyền lại cho các thế hệ tương lai. Triển lãm "For Me And You" tại: Irvine Fine Art Center: 14321 Yale Ave, Irvine, CA 92604. Khai mạc vào thứ Bảy 16 tháng 11, 2024. Từ 2-4 giờ chiều. Cuộc triển lãm kéo dài từ 16 tháng 11, 2024 đến 25 tháng 1, 2025. Ngày giờ mở cửa: Thứ Hai-Thứ Năm 10am-9pm. Thứ Sáu-Thứ Bảy: 10am-5pm. Đóng cửa Chủ Nhật.
Trong thế hệ ca nhạc sĩ trẻ của nền âm nhạc Sài Gòn trước 1975, cặp uyên ương Lê Uyên - Phương có một chỗ đứng đặc biệt, độc nhất. Sự nghiệp sáng tác của nhạc sĩ Phương kéo dài từ đầu thập niên 1970s ở Miền Nam sang đến tận Hoa Kỳ sau 1975, cho đến khi ông mất vào năm 1999. Nhiều ca khúc Lê Uyên Phương cho đến nay vẫn chưa được chính thức phổ biến, phát hành. Để tưởng nhớ 25 năm ngày mất của người nhạc sĩ tài hoa, ca sĩ Lê Uyên sẽ tổ chức đêm nhạc chủ đề “Lê Uyên Phương 25 Năm Cuộc Đời– Tình Yêu – Âm Nhạc” tại Saigon Grand Center thành phố Fountain Valley vào ngày 7 tháng 12 2024.
Cộng đồng người Việt tị nạn ở Mỹ và trên toàn thế giới đang tiến tới một cột mốc quan trọng: 50 năm ly hương kể từ sau biến cố Tháng Tư Đen 1975. Nhiều tác phẩm trong các lĩnh vực văn học nghệ thuật được thực hiện có liên quan đến sự kiện này. Tại đại hội điện ảnh Viet Film Fest 2024 vừa được tổ chức vào đầu tháng 10, bộ phim đoạt giải Trống Đồng dành cho phim dài xuất sắc nhất là New Wave của nữ đạo diễn Elizabeth Ai. Bộ phim tài liệu này ghi nhận lại một hiện tượng âm nhạc quan trọng của thế hệ người Việt trong thập niên 1980s: dòng nhạc new wave. Thế nhưng bộ phim không chỉ dừng lại ở khía cạnh âm nhạc, mà đào sâu hơn vào mâu thuẫn trong những gia đình Việt Nam trong những ngày đầu định cư ở Mỹ.
Thời gian là thứ được người ta ví như vó câu, vụt một cái là biến mất, chẳng bao giờ trở lại, có muốn níu cũng vô ích. Họa sĩ Phan Nguyên không dại chi mà níu, anh ghi lại rồi mặc cho nó sổng ra chạy đi. Tôi muốn nói tới anh, một người đã âm thầm lưu giữ những mảnh vụn thời gian của giới văn học nghệ thuật bằng cách ghi lại trong “Mượn Dấu Thời Gian”, tên tiếng Pháp là “Emprunt Empreinte”. Anh tâm tình: “Là một “sân chơi” rất riêng của Phan Nguyên từ khá lâu với giới văn nghệ sĩ, thân hữu gần xa, trong và ngoài nước, không phân biệt tuổi tác, sắc tộc, tôn giáo, chính kiến gì cả, miễn là họ đã có những tác phẩm hay, đẹp để lại cho đời và cho thế hệ mai sau, miễn là họ đã đóng góp cái phần tinh túy nhất của con người, của chính mình cho văn học nghệ thuật Việt Nam hay thế giới nói chung”.
Để ta cùng vượt thời gian, không gian. Một trăm năm nữa, nếu có cơ duyên hội ngộ, vẫn chuyện trò tự nhiên, vui vẻ, như từng gặp gỡ tự bao giờ. Vui vẻ, vì cả đời chỉ thích viết văn, làm thơ. Viết văn, trừ trường hợp bất khả kháng, tôi vẫn cố gắng viết vui, cho bạn đọc đỡ nản. Nay tự nhiên lâm cảnh ngặt nghèo, phải đem chuyện vật lý, khoa học, Vũ trụ càn khôn, vừa nhàm chán vừa khó hiểu, ra trình làng… nên càng phải cố viết vui, viết giễu. Để may ra vớt vát được phần nào.
Trong lãnh vực sáng tác từ ngôn ngữ cho đến tác phẩm trực quan, các chuyên gia và các tác giả đang quan tâm đến khả năng sáng tạo của AI, sự hiện diện và tác dụng của trí thông minh nhân tạo sẽ làm thay đổi quan niệm và phương pháp, kỹ thuật và nghệ thuật truyền thống. Các chuyên gia về máy học dự đoán rằng AI sẽ "viết" một cuốn sách bán chạy nhất của tờ New York Times vào năm 2049 (Grace và cộng sự, 2018; Hall, 2018). Lãnh vực sáng tạo tính toán đã được xác định là biên giới tiếp theo trong nghiên cứu AI (Colton & Wiggins, 2012) và có ý nghĩa hấp dẫn đối với ngành công nghiệp văn học. Các thuật toán có khả năng tạo ra ngôn ngữ tự nhiên (Gatt & Krahmer, 2018) Các nghiên cứu về sáng tạo tính toán tập trung vào việc xác định các yếu tố cốt lõi của các hình thức sáng tạo (như văn học, nghệ thuật thị giác và âm nhạc) theo góc nhìn thuật toán, với mục đích sao chép hoặc kích thích sự sáng tạo của con người (Turner, 2014; Besold và cộng sự, 2015; Veale và cộng sự, 2019).
1)Tưởng niệm MC Phạm Phú Nam 2)Nhớ về cuộc di cư 1954. 3)Chiếu Phim Sài gòn trước 75 4)Chào đón minh tinh Kiều Chinh đến San Jose. Chiều ngày thứ bẩy 27 tháng 7 năm 2024 vừa qua chúng tôi đã có dịp nhân danh Viet Museum kịp thời trả những món nợ cho lịch sử. Số là anh chị em chúng tôi vẫn còn nhớ về chuyến di cư 1 triệu người từ Bắc vào Nam 70 năm xưa.
Anh Cao Huy Thuần vừa qua đời lúc 23giờ 26 ngày 7-7-1924 tại Paris. Được tin anh qua đời tôi không khỏi ngậm ngùi, nhớ lại những kỷ niệm cùng anh suốt gần 60 năm, từ Việt Nam đến Paris. Anh sinh tại Huế, học Đại Học Luật Khoa Sài Gòn (1955-1960) và dạy đại học Huế (1962-1964). Năm 1964 anh sang Pháp du học. Năm 1969 anh bảo vệ Luận án Tiến sĩ Quốc Gia tại Đại Học Paris, và giảng dạy tại Viện Đại Học Picardie cho đến khi về hưu.
Khi lần đầu tiên gặp một họa sĩ, tôi thường có khuynh hướng tìm vài nét tương đồng để liên tưởng đến một họa sĩ nổi tiếng nào đó thuộc những thế hệ trước. Với Nguyễn Trọng Khôi, tôi cũng làm như vậy nhưng trừ vài nét chung chung như được đào tạo ở trường ốc hay năng khiếu, tôi không tìm được gì đậc biệt. Nguyễn Trọng Khôi (NTK) không giống một họa sĩ nào khác.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.