Hôm nay,  

Mùa thu, trăng & hạt mưa

10/09/202217:07:00(Xem: 1585)
Tản mạn

autumn leave

1.


Từ khi con người biết đến hội họa và diễn đạt tâm hồn qua cung bậc của âm nhạc hay bằng hình tượng của văn chương, mùa thu đã theo đấy vào thơ ca, nhạc, họa… Bạn đã từng bàng hoàng khi đứng trước bức tranh thu của một danh họa? Lắng nghe mùa thu sướt mướt trên từng giai âm của cung điệu? Hay run rẩy, thổn thức trước một bài thơ thu đầy lá vàng và tâm trạng? Xốn xang, man mác bởi một nỗi…


Mùa thu xưa, xa lăng lắc của cụ Tam nguyên Yên Đổ: “ Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao/ Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu/ Nước biếc trông như tầng khói phủ…” ăm ắp một trời thu xanh, với gió hắt hiu, nước biếc và khói phủ! Còn cái mùa thu gần với hiện đại của Lưu thi sĩ thì bàng bạc, hiu hắt “dưới trăng mờ thổn thức” bởi người chinh phu “trong lòng người cô phụ”? Gần hơn với thế hệ bây giờ, là cái cảm giác chùng chình của mùa thu qua những cảm nhận của Hữu Thỉnh: “Sương chùng chình qua ngõ/ Hình như thu đã về?” Có nghĩa là thu vừa mới về, và cái vòng quay ba tháng, chín mươi ngày đã trở thành ấn tượng rất riêng của Xuân Quỳnh: “Cuối trời mây trắng bay/ Lá vàng thưa thớt quá!” Cảnh sắc mùa thu tiếc là ở phương Nam nắng gió, rất khó mà nhìn thấy hay cảm nhận một cách rõ rệt như đất trời phía Bắc, và cả ở trời Âu, trời Tây xa vạn dặm. Mùa thu Paris của Cung Trầm Tưởng với màu vàng huyễn hoặc của vườn Lục Xâm Bua. Mùa thu nước Nga trong thơ Olga Bergon, khéo léo nhắc lại những tấm bảng “nhắc nhở” mọi người ở Matxcơva : “Tránh đừng động vào cây, mùa lá rụng”, thì người ta đã cảm nhận và thấu hiểu hết nỗi đau của cây mỗi mùa thu về, sự li biệt của những chiếc lá vàng, rời bỏ những cây mẹ để về cội nguồn của đất cát. Chia tay và li biệt, có ai đó gọi đấy là mùa thu. Một sự tuần hoàn, một vòng quay mới cho sự hồi sinh và tái tạo mới. Phương Đông, lá vàng, hoa cúc… những biểu tượng thu là một trời man mác, nhớ nhung.

 

2.


Nhắc thu thì không thể thiếu vầng trăng, cho dù là “trăng vạn cổ”, quen thuộc với hết thảy mọi người. Song mà trăng dường như mỗi năm mỗi khác, mỗi năm mỗi mới? Mới trong cảm nhận của từng thế hệ, từng lớp người, và trong huyết mạch tâm linh của nòi thi sĩ? Trương Kế xưa từng nhìn trăng qua mấy câu thơ: “Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên”. Vầng trăng rụng, tiếng quạ kêu trong một đêm sương đầy, đã như một phát hiện thần thánh, bản ngã của trăng và cả bản ngã của thi nhân mà người đời sau khó sánh? Vầng trăng thu ắt khác hẳn với vầng trăng xuân của Trương Nhược Hư với “Xuân giang hoa nguyệt dạ”? Cùng với người xưa, vốn trăng là bạn, cho nên: “Giang bạn hà nhân sơ kiến nguyệt” để rồi: “Giang nguyệt hà niên sơ kiến nhân”. Là bạn, có khi rất ư thân thiết, coi như sở hữu của riêng mình? Vì thế mà Hàn Mặc Tử, người ra đời cách đây một trăm năm đã dám rao: “Ai mua trăng tôi bán trăng cho”!


Trăng là chị Hằng Nga duyên dáng, xinh đẹp: “Trăng ngọc màu duyên tỏa bóng ngà/ Đêm thu xinh đẹp dáng Hằng Nga” ( Như Mai), để bao người mơ mình là Hậu Nghệ, mỏi mòn dưới đất để ngắm… trăng trên trời. Mượn túi thơ, bầu rượu để tìm cảm hứng ngợi ca một chị Hằng hàng triệu năm tuổi? Ánh trăng soi song cửa, ánh trăng chiếu vào nhà, gợi nhớ nhiều thứ về quê hương thung thổ, với bao gương mặt của những người thương yêu và cả những bóng hình trong kỷ niệm. Bóng trăng trên sông, bên bờ suối, ở lưng chừng núi và cả “đầu súng trăng treo” vẫn là những hình ảnh một đời khó quên. Rồi ánh trăng nơi sân đình, tiếng trống lân rộn ràng đêm rằm trung thu, rồi tiếng hò reo tở mở của đám trẻ con lúc phá cỗ đón trăng. Bao con người lớn lên dưới ánh trăng thanh hòa bình quê kiểng?


Trăng vốn tính âm, ánh sáng hiền hòa, dịu mát, ví với bà, với mẹ, với chị và cả với người con gái làng đang tuổi cập kê kia mà ai đã từng gửi thương gửi nhớ. Mong đợi cả mấy mùa trăng?

 

3.


Mùa thu phương Nam đồng nghĩa với mùa mưa, những cơn mưa đỏng đảnh, chợt đến chợt đi. Song cũng có lúc mưa dầm dề, tối trời, tối đất, mà mỗi khi mưa dai dẳng, đăng đăng đê đê, lại chạnh lòng lo miền Bắc, miền Trung bão lũ, lắng nghe đài báo mỗi cơn áp thấp, mỗi cơn bão về là lại mang mang lắm nỗi niềm của những người con xa xứ, dõi mắt về quê qua làn mưa, chẳng phải “Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ”, mà mưa bay qua mắt, từng hạt, từng hạt, xốn xang, nặng trĩu cả lòng!


Hạt mưa mùa thu, bỗng một sáng nắng ấm, trong văn vắt đọng lại trên sợi dây phơi phía sau hè, cái níu tay khẽ khàng làm lăn dài sợi mưa, nghe nắng ấm tràn trên tay mà vui vì lắm nỗi. Sẽ không còn mưa dầm, làm tù túng chân người già, con trẻ trong nhà. Phía sân chung của khu phố nhỏ, nhiều tiếng cười hơn, bài tập dưỡng sinh vẫn còn chưa dứt, dưới những vệt nắng vàng, làm lay lay những cành lá?


Hạt mưa lại thánh thót nhỏ vào cái lu nước màu da lươn bóng láng trước hiên, rồi mưa lại lộp bộp trên mái nhà, hàng cây lá reo dưới mưa. Không vàng sắc thu mà đang xanh dậy thì, cái màu lục diệp mơn mởn dưới mưa…


Trần Hoàng Vy

(Tiết thu phân)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi 30 tháng 4 là mỗi năm xa hơn ngày đó, 1975, thêm một bước nữa xa hơn, đi vào dĩ vãng. Hầu hết những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến trước 75, nay đã vắng mặt. Non nửa thế kỷ rồi còn gì. Khi không còn ai nữa, không hiểu những thế hệ trẻ tha hương sẽ nhớ gì? Một thoáng hơi cay? Có khi nào bạn đọc ngồi một mình chợt hát lên bài quốc ca, rồi đứng dậy, nghiêm chỉnh chào bức tường, thằng cháu nhỏ thấy được, cười hí hí. Ông ngoại mát rồi. Trí tưởng tượng của người thật kỳ diệu. Rượu cũng kỳ diệu không kém. Nửa chai vơi đi, lơ mơ chiến sĩ trở về thời đó. Lạ lùng thay, quá khứ dù kinh hoàng, khốn khổ cách mấy, khi nhớ lại, có gì đó đã đổi thay, dường như một cảm giác đẹp phủ lên như tấm màn mỏng, che phía sau một thiếu phụ trẻ đang khóc chồng. Cô có mái tóc màu nâu đậm, kiểu Sylvie Vartan, rủ xuống che nửa mặt. Nhưng thôi, đừng khóc nữa. Chỉ làm đất trời thêm chán nản. Để tôi hát cho em nghe, ngày đó, chúng tôi, những người lính rất trẻ.
Ngày 30 tháng 4 năm nay, 2024, đánh dấu 49 năm ngày Sài Gòn thất thủ vào tay cộng sản Bắc Việt (30 tháng 4 năm 1975). Biến cố này đã mở ra một tương lai đen tối cho dân tộc Việt Nam mà một trong những hệ lụy thảm khốc nhất là hàng triệu đồng bào đã bỏ nước ra đi tìm tự do, trong đó có khoảng hơn 400,000 người chết thảm giữa lòng biển cả. Cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài trong 20 năm đã khiến cho hơn 950,000 bộ đội và thường dân miền Bắc chết và khoảng 600,000 lính cộng sản bị thương. Trong khi đó, có khoảng hơn 700,000 thường dân và binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa thiệt mạng, cùng với 1,170,000 lính VNCH bị thương. Phía Hoa Kỳ có 58,281 binh sĩ tử thương và 303,644 lính bị thương. Đó là chưa kể số thương vong của binh sĩ các nước tham chiến ở hai miền Nam-Bắc, theo www.en.wikipedia.org.
Thế giới đang bùng nổ nhiều cuộc chiến tranh, và đang ngún lửa ở nhiều nơi khác: Trung Đông, Ukraine, Miến Điện, Đài Loan, Biển Đông… Một thời Việt Nam cũng đã trải qua nhiều cuộc binh lửa. Khi đọc kỹ Tam tạng Kinh điển, chúng ta cũng sẽ thấy có những cuộc chiến. Bản thân Đức Phật khi mới lớn cũng học kỹ thuật kiếm cung. Trong nhiều kiếp quá khứ, Đức Phật, khi còn ở cương vị Bồ Tát, cũng đã từng ra trận. Nhiều hình ảnh ẩn dụ trong kinh điển cũng cho thấy dấu tích chiến tranh: ngựa chiến, voi chiến, áo giáp, mũi tên… Và rồi tận cùng, Đức Phật nói trong Kinh SN45.7 rằng chiến thắng vinh quang nhất chính là nhiếp phục tham, sân, si – nơi đó chính là Niết Bàn. Đó là mặt trận lớn nhất, gian nan nhất.
Vào ngày 6 tháng 12, 2023, nhà thơ, nhà văn, giáo sư văn học và nhà hoạt động xã hội được yêu mến người Palestine Refaat Alareer đã thiệt mạng trong một cuộc không kích từ Israel cùng với người anh, em gái và bốn đứa con của họ. Trong tuần để tang kể từ đó, những lời tri ân dành cho cuộc đời, sự nghiệp viết lách và các hoạt động nghệ thuật tích cực của Alareer đã tràn ngập khắp nơi trên thế giới. Nhiều lời tri ân được đăng cùng với bài thơ cuối cùng “Nếu tôi phải chết” được ông đăng trên Twitter của mình vào ngày 1 tháng 11 năm 2023. Cho đến nay, bài thơ chia tay như một điềm báo đau lòng của Alareer hiện đã được dịch sang hơn 40 thứ tiếng; được đọc trên các sân khấu thế giới và được viết trên các bức tường sân ga tàu điện; được in trên các biểu ngữ, bảng hiệu, cờ và diều, được giương cao trong các cuộc biểu tình đòi ngưng bắn trên khắp thế giới.
Nhà xuất bản của Ocean Vương trên Marketplace cũng như Ocean Vương trên Instagram của mình đã thông báo về cuốn tiểu thuyết mới sẽ được xuất bản vào tháng 6 năm 2025, Emperor of Gladness. “Emperor of Gladness” là cuốn tiểu thuyết thứ hai của Ocean Vương, “kể về một năm trong cuộc đời của một thanh niên ương ngạnh ở New England, người tình cờ trở thành người chăm sóc cho một góa phụ 82 tuổi bị mất trí nhớ, tạo nên câu chuyện về tình bạn. sự mất mát và mức độ chúng ta sẵn sàng mạo hiểm để đòi hỏi một trong những ân huệ quý giá nhất của cuộc đời: cơ hội thứ hai.”
Tuyển tập “9 Khuôn Mặt: 9 Phong Khí Văn Chương” của Bùi Vĩnh Phúc là những trang sách phê bình văn học độc đáo, nơi đây 9 người cầm bút nổi tiếng của Miền Nam – Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên – được chiếu rọi trên trang giấy rất mực trân trọng, công phu, phức tạp, và nổi bật là kiểu phê bình văn học rất mực thơ mộng của họ Bùi.
Nhận được tin buồn nhà thơ Phan Xuân Sinh sau một cơn bạo bệnh, nhập viện vì bệnh tim mạch, hôn mê sau 10 ngày vô phương cứu chữa đã qua đời tại Texas ngày 28/2/2024. Thọ 76 tuổi...
Từ hồi trẻ, tôi đã có thói quen là những ngày giáp Tết thì bắt đầu chọn một vài bài nhạc xuân để nghe; và trong những ngày đầu năm thì sẽ đọc một cuốn sách. Thói quen “khai sách đầu xuân” có thêm một chi tiết khi tuổi quá độ “ngũ thập nhi tri thiên mệnh”: đọc một cuốn sách có chủ đề về Phật Giáo. Trong năm Giáp Thìn này, tôi chọn cuốn “Từ Mặc Chiếu Đến Như Huyễn” của một tác giả cũng tuổi con rồng: cư sĩ Nguyên Giác, cũng là nhà báo Phan Tấn Hải. Giới thiệu “tác giả, tác phẩm” dài dòng như vậy, nhưng đối với tôi, người viết đơn giản chỉ là anh Hải, một người anh thân thiết, đã từng có một thời ngồi gõ bàn phím chung trong tòa soạn Việt Báo ở phố Moran. Đọc sách của anh Hải, tôi cũng không dám “điểm sách” hay “phê bình sách”, vì có thể sẽ bị anh phán rằng “… viết như cậu thì chỉ… làm phí cây rừng thôi!” Bài viết này chỉ ghi lại một vài niềm hứng khởi khi được tặng sách, khi đọc qua cuốn sách mà cái tựa cũng đã chạm sâu thẳm vào những điều bản thân đang chiêm nghiệm.
Chúng ta thường được nghe nói, rằng mọi người đều bình đẳng trước Thượng Đế. Tuy nhiên, Thượng đế thì không ai thấy, nhưng có một thứ còn đáng sợ hơn nhân vật cổ sử đó (nếu thật sự là có Thượng Đế): đó là những trận mưa bom. Người dân Ukraine và Palestine ý thức rất rõ, vì đó là chuyện hằng ngày của họ: mọi người đều bình đẳng khi đứng dưới mưa bom. Già, trẻ, nam, nữ, trí thức, nông dân, nhà thơ, họa sĩ… đều bình đẳng: khi bom rơi trúng là chết. Cuộc chiến giữa người Palestine muốn giữ đất và người Israel từ nơi xa tới nhận phần đất mới do quốc tế trao tặng từ đất Palestine đã kéo dài nhiều thập niên. Bây giờ căng thẳng mới nhất là ở Gaza, cuộc chiến đang tiếp diễn giữa nhóm Hamas, thành phần chủ trương bạo lực của dân Palestine, và quân Israel. Trong những người chết vì bom Israel, có những người hiền lành nhất, đó là trẻ em và phụ nữ.
Thông thường khi nghe hai chữ “cô đơn” chúng ta liên tưởng đến trạng thái tinh thần yếm thế, tâm tư buồn bã, ngày tháng chán chường, thậm chí, cuộc đời trống rỗng. Có lẽ, vì ý nghĩa từ điển của từ vựng này; có lẽ, vì ảnh hưởng văn chương nghệ thuật; có lẽ vì chúng ta đã từ lâu tin như thế, mà không bao giờ đặt một nghi vấn nào. Đây là định nghĩa của “cô đơn” qua Bách thư toàn khoa Wikipedia: “Cô đơn là một trạng thái cảm xúc phức tạp và thường gây khó chịu, đáp ứng lại với sự cách ly xã hội. Cô đơn thường bao gồm cảm giác lo lắng về sự thiếu kết hợp hay thiếu giao tiếp với những cá nhân khác, cả ở hiện tại cũng như trong tương lai. Như vậy, người ta có thể cảm thấy cô đơn ngay cả khi xung quanh có nhiều người. Nguyên nhân của sự cô đơn rất đa dạng, bao gồm các vấn đề về xã hội, tâm thần, tình cảm và các yếu tố thể chất.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.