Bạn,
Theo báo Lao Động, mùa đại hạn vừa qua không chỉ thiệt hại nặng nề về sản xuất mà báo chí quốc nội đã rầm rộ đưa tin, nhiều vùng dân cư, cả vùng thị trấn ở Tây Nguyên còn gặp hạn nghiêm trọng về nguồn nước sinh hoạt... Hệ thống cung cấp nước tại các tỉnh ở Tây Nguyên chỉ giải quyết khoảng 1/3 nhu cầu. Ngoài thiên tai, hạn hán, tệ nạn xây dựng cẩu thả các công trình nước sinh hoạt đã làm cho dân Tây Nguyên càng khốn khổ hơn trong mùa đại hạn. Báo NLĐ ghi nhận về tình cảnh dân tỉnh tỉnh Gia Lai (Pleiku) chờ nước qua đoạn ghi chép như sau.
Tại tỉnh Gia Lai, nguồn nước sinh hoạt từ nhiều năm qua đã trở thành trọng tâm ở nông thôn tỉnh này. Mỗi năm, cả nguồn vốn ngân sách lẫn vốn tài trợ đã đầu tư tuy không dưới 3 tỷ đồng; và đến nay, toàn tỉnh mới xây dựng được 2,188 giếng đào, 1,721 giếng khoan dùng bơm tay, 68 “giọt nước”, 54 công trình nước sinh hoạt tập trung, 150 lu đựng nước mưa... Song từng ấy công trình cũng chỉ mới giải quyết nước sinh hoạt cho trên 20 vạn cư dân nông thôn (34 %). Những “giọt nước” dùng chung cho cộng đồng của đồng bào dân tộc, như một bản sắc làng, bị khô cứng bởi bê tông; những giếng đào vốn sâu trên dưới 20 mét tuy có giúp giảm chi phí phần nà cho dân nghèo... Thế nhưng, qua nhiều lời than phiền của dân chúng, và qua khảo sát gần đây của cơ quan chức năng, mới thấy, rất nhiều công trình trong số đó được làm một cách cẩu thả; người sử dụng thì coi đó như “của trời ơi”, không cần thiết phải giữ gìn.
Nổi cộm như giếng khoan ở xã Ia R’mook (Krông Pa), xây dựng xong không có dầu chạy máy; đến khi có điện thì công trình dã xuống cấp nghiêm trọng, không dùng được. Ở xã Ia Rsai (Krông Pa) thì có tới 8/26 giếng khoan hư hỏng hoặc do “giếng cao hơn mực nước ngầm” không hoạt động, cũng tại đây, 5 cụm giếng khác cũng không...có nước. Nhiều giọt nước còn bị rác lấp lưu cữu nên khô cạn. Ở làng Bi (xã Ia Dom, Đức Cơ) có 8 giếng thì đến 5 giếng không có nền, cũng không có nước... Đó là chưa kể nhiều nơi chưa có điều kiện khảo sát.
Trả lời khiếu nại của dân, đặc biệt là về các giếng khoan bơm không có nước, mới đây, tỉnh cho rằng đó là do mực nước ngầm xuống thấp quá khả năng hút của máy, và “đến mùa mưa thì giếng sẽ hoạt động trở lại bình thường”. Tây Nguyên 6 tháng mưa, 6 tháng nắng, thảo nào mà nhiều nơi, dân cư cứ phải uống tạm uống bợ, đợi mưa.
Bạn,
Báo quốc nội viết tiếp: tùy công trình mà lỗi thuộc về một trong ba phía: Đơn vị thi công làm dối; cấp chủ quản nghiệm thu “vội”; dân thì thiếu ý thức. Không ít người dân chịu khát bên những giếng trơ đáy đã mỏng mảnh kêu rằng: “Cứ mong cho đủ nước dùng cái đã, còn nước “sạch” thì từ từ cũng được”.
Theo báo Lao Động, mùa đại hạn vừa qua không chỉ thiệt hại nặng nề về sản xuất mà báo chí quốc nội đã rầm rộ đưa tin, nhiều vùng dân cư, cả vùng thị trấn ở Tây Nguyên còn gặp hạn nghiêm trọng về nguồn nước sinh hoạt... Hệ thống cung cấp nước tại các tỉnh ở Tây Nguyên chỉ giải quyết khoảng 1/3 nhu cầu. Ngoài thiên tai, hạn hán, tệ nạn xây dựng cẩu thả các công trình nước sinh hoạt đã làm cho dân Tây Nguyên càng khốn khổ hơn trong mùa đại hạn. Báo NLĐ ghi nhận về tình cảnh dân tỉnh tỉnh Gia Lai (Pleiku) chờ nước qua đoạn ghi chép như sau.
Tại tỉnh Gia Lai, nguồn nước sinh hoạt từ nhiều năm qua đã trở thành trọng tâm ở nông thôn tỉnh này. Mỗi năm, cả nguồn vốn ngân sách lẫn vốn tài trợ đã đầu tư tuy không dưới 3 tỷ đồng; và đến nay, toàn tỉnh mới xây dựng được 2,188 giếng đào, 1,721 giếng khoan dùng bơm tay, 68 “giọt nước”, 54 công trình nước sinh hoạt tập trung, 150 lu đựng nước mưa... Song từng ấy công trình cũng chỉ mới giải quyết nước sinh hoạt cho trên 20 vạn cư dân nông thôn (34 %). Những “giọt nước” dùng chung cho cộng đồng của đồng bào dân tộc, như một bản sắc làng, bị khô cứng bởi bê tông; những giếng đào vốn sâu trên dưới 20 mét tuy có giúp giảm chi phí phần nà cho dân nghèo... Thế nhưng, qua nhiều lời than phiền của dân chúng, và qua khảo sát gần đây của cơ quan chức năng, mới thấy, rất nhiều công trình trong số đó được làm một cách cẩu thả; người sử dụng thì coi đó như “của trời ơi”, không cần thiết phải giữ gìn.
Nổi cộm như giếng khoan ở xã Ia R’mook (Krông Pa), xây dựng xong không có dầu chạy máy; đến khi có điện thì công trình dã xuống cấp nghiêm trọng, không dùng được. Ở xã Ia Rsai (Krông Pa) thì có tới 8/26 giếng khoan hư hỏng hoặc do “giếng cao hơn mực nước ngầm” không hoạt động, cũng tại đây, 5 cụm giếng khác cũng không...có nước. Nhiều giọt nước còn bị rác lấp lưu cữu nên khô cạn. Ở làng Bi (xã Ia Dom, Đức Cơ) có 8 giếng thì đến 5 giếng không có nền, cũng không có nước... Đó là chưa kể nhiều nơi chưa có điều kiện khảo sát.
Trả lời khiếu nại của dân, đặc biệt là về các giếng khoan bơm không có nước, mới đây, tỉnh cho rằng đó là do mực nước ngầm xuống thấp quá khả năng hút của máy, và “đến mùa mưa thì giếng sẽ hoạt động trở lại bình thường”. Tây Nguyên 6 tháng mưa, 6 tháng nắng, thảo nào mà nhiều nơi, dân cư cứ phải uống tạm uống bợ, đợi mưa.
Bạn,
Báo quốc nội viết tiếp: tùy công trình mà lỗi thuộc về một trong ba phía: Đơn vị thi công làm dối; cấp chủ quản nghiệm thu “vội”; dân thì thiếu ý thức. Không ít người dân chịu khát bên những giếng trơ đáy đã mỏng mảnh kêu rằng: “Cứ mong cho đủ nước dùng cái đã, còn nước “sạch” thì từ từ cũng được”.
Gửi ý kiến của bạn