Hôm nay,  

Câu Chuyện Thầy Lang: Cơn Đau Thể Chất

28/04/200600:00:00(Xem: 3596)

Tại Hoa Kỳ, có nhiều tổ chức y khoa chuyên nghiên cứu về vấn đề Đau Nhức Cơ Thể vì đây là một trong mấy rối loạn sức khỏe thường xẩy ra. Các tổ chức này đã phát động một chiến dịch để thỉnh cầu chính quyền các tiểu bang thừa nhận tháng 9 mỗi năm như là thời gian để mọi người ý thức được sự trầm trọng của niềm đau thể chất.  Đồng thời họ cũng khuyến khích người cung cấp dịch vụ y tế gia tăng các phương thức điều trị để giảm khó khăn cho bệnh nhân. <"xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:office" />

 

Cùng khi đó, vào tháng 3 năm 2005, dân biểu Mike Rogers đã đệ trình Hạ Viện Hoa Kỳ dự luật HR 1020 National Pain Care Policy Act of 2005, nhằm thúc đẩy chính quyền thành lập một Trung Tâm Quốc Gia về Đau Nhức cũng như tăng cường sự hướng dẫn, nghiên cứu, điều trị Cơn Đau. Dự Luật được thảo luận vào ngày 14 tháng 9 năm 2005.

 

Coi vậy ta thấy những cơn Đau Thể Chất vẫn là một một ám ảnh lớn của người bệnh. Vấn đề rõ ràng hơn nhất là trong thời gian vừa qua, một vài loại thuốc chống đau đã được rút khỏi thị trường sau khi có những nhận xét nghiêm khắc về tác dụng xấu của chúng.

 

Ngoài ra, đã có một thời kỳ, giới y tế cũng như công chúng đã không để ý nhiều tới sự điều trị và nghiên cứu về cảm giác đau của cơ thể khi bệnh hoạn thương tích. Nhiều trường họp đau vì ung thư hoặc đau cận tử đều không được chữa tới nơi tới chốn. Đây là một thiếu sót lớn của y giới vì điều trị Đau Nhức một cách hữu hiệu là phần rất quan trọng trong việc chăm sóc bệnh nhân.

 

Vậy xin cùng tìm hiểu về những Cơn Đau Thể Chất này.

 

Đau là gì"

 

Tự điển tiếng Việt định nghĩa Đau là “trạng thái khó ở, nhức nhối về thể chất gây ra do thương tích và bệnh tật”.

 

Năm 1968, tác giả M. McCaffery định nghĩa “Đau là bất cứ cái gì khó chịu mà nạn nhân nói ra và ở nơi nào mà họ chỉ”

 

Năm 1979, Hội Quốc Tế Nghiên Cứu về Đau định nghĩa: “Đau là một kinh nghiệm khó chịu về cảm giác và xúc động gây ra do thương tích của tế bào hoặc được biểu lộ qua tình trạng hư hao của các tế bào”.

 

Còn Plato phát biểu bao quát hơn “Đau là cái gì liên can tới thể chất nhưng cũng nói lên kinh nghiệm khó khăn về tinh thần”.

 

Về y học, Đau là phản ứng của cơ thể trước một kích thích.

 

Kích thích được dây thần kinh ngoại vi tiếp nhận, truyền vào tủy sống rồi đưa lên phần Thalamus của não bộ, nơi mà cảm giác đau được phát hiện. Sau đó Thalamus lại chuyển tín hiệu đó tới vùng não trách nhiệm về cảm giác thể chất, cảm giác xúc động và sự suy tư. Não sẽ đưa ra biện pháp đối phó, thích nghi, cũng như tiết ra những hóa chất làm dịu cơn đau hoặc báo động sự  hiểm nguy. Do đó con người có phản ứng khác nhau với sự đau.

 

Có người đau nhiều, người đau ít, có người tức giận có người thản nhiên. Cơn đau của Thiên Đầu Thống chắc làm ta chú ý và phản ứng nhiều hơn là đau khi cắt quả táo mà lưỡi dao sắc lẹm nhẹ vào da.

 

Cường độ cảm giác đau cũng thay đổi tùy theo nhiều yếu tố.

 

Yếu tố từ con người như tâm trạng, thái độ đối với đau; kỷ niệm đau trong quá khứ; trình độ học vấn và giai tầng trong xã hội, tuổi tác và giống tính.

 

Một em bé chưa đi nha sỹ bao giờ mà chỉ nghe bạn bè kháo nhau “ông ấy khoan răng tao đau quá trời chúng mày ơi”, thì chắc sẽ khóc thét khi chỉ mới nhìn thấy ông bà nha sĩ.

 

Một lực sĩ chú tâm biểu diễn chắc có thể tỉnh bơ, cắn răng chịu đựng khi mũi giầy vấp vào vật cứng. Tâm trạng sợ hãi, mệt mỏi trầm buồn làm tăng cảm giác đau. Cũng như câu nói ‘Công chúa đứt tay khóc la như thợ cầy bị sừng trâu nhọn hoắt húc lòi ruột ra ngoài”.

 

Các sự việc này khiến ta liên tưởng tới khái niệm “ngưỡng cửa ” về cảm giác đau (Pain Threshold), một giới hạn dưới đó ta tỉnh bơ với kích thích, với tác nhân gây đau.

 

Người có tín ngưỡng mạnh coi sự đau đớn như trừng phạt của Thương đế với tội lỗi của mình thì cũng chịu đựng được sự đau đớn.

 

 Rồi lại còn yếu tố tập tục văn hóa khích lệ con người chai lỳ, ngậm bồ hòn làm ngọt “Bite the Bullet” trước cơn đau để biểu dương nhân cách cang cường.

 

Cảm giác Đau hoàn toàn có tính cách cá nhân, chủ quan, không đo lường được nên chỉ có đương sự mới diễn tả được đau ở đâu, đau khi nào, đau nhiều hay ít. Do đó không ai có thể cảm thấy cái đau của người khác cũng như cơn đau của mỗi người mỗi khác. Và người chăm sóc phải luôn luôn coi lời than phiền là có thực, mà chẳng nên phủ nhận “rõ thực chỉ giả vờ” hoặc đánh giá thấp khó khăn của người bệnh.

 

Đã có nhiều đề nghị thêm cảm giác Đau vào Bốn Dấu Hiệu  Sinh Tử Vital Signs được y học dùng từ nhiều thế kỷ để xác định tình trạng sức khỏe xấu tốt. Đó là huyết áp, nhịp tim, nhịp thở và nhiệt độ. Theo các giới chức này, Đau là một dấu hiệu của bệnh tật và có thể được y giới dùng để ước lượng sự khỏe mạnh hoặc đau yếu của con người.

 

Với người lớn tuổi, hiện nay có một Thang Số Number Scale đánh số từ số 0 là không đau đến số 10 là đau nhiều nhất. Bệnh nhân sẽ được hỏi và ghi mức độ đau theo bảng này.

 

Ngoài ra còn Thang Nét Mặt Face Scale với nét bình thản, hơi nhăn nhó và đau phát khóc hoặc Thang với hàng chữ từ không đau tới đau vừa, đau nhiều hơn và đau lắm. Các Thang này giúp xác định cường độ đau cũng như để theo dõi kết quả điều trị.

 

Đau nhức là một khó khăn rất thường xẩy ra. Cứ mười người thì có đến tám người than phiền đau nhức đâu đó trên cơ thể và là lý do đi khám bệnh nhiều nhất, đặc biệt là với các vị tuổi cao.

 

Nào là đau lưng, nhức xương, thoái hóa cột sống, đau răng, đau mình, đau vì ung thư, đau sau giải phẫu, đau của người già, đau kinh kỳ phụ nữ. Thôi thì trăm thứ.Theo thăm dò ý kiến thì chỉ 1 trong 4 người bị đau với các hậu quả như giảm sinh hoạt hàng ngày, đời sống khó khăn, lo ngại, trầm buồn, bực tức, vắng mặt nơi làm việc được là  điều trị tới nới tới chốn. Số còn lại triền miên nhăn nhó với cơn đau.

 

Các loại Đau

 

Về sinh hóa học, khi bị tổn thương, tế bào sẽ tiết ra mấy hóa chất đưa tới cơn đau, như Prostaglandins, Histamine, Serotonin, Cytokin. Hóa chất Endorphin lại làm bớt đau.

 

Đau có thể là mãn tính hoặc cấp tính tùy theo thời gian cơn đau kéo dài lâu mau và cũng tùy theo nguyên nhân gây ra Đau.

 

a-Đau cấp tính.

 

Đây là một hỗn hợp nhiều cảm giác và xúc động khó chịu với mấy đặc tính như sau:

 

-Xuất hiện khi tế bào bị tổn thương và tan biến khi vết thương lành;

 

-Nhẹ thoảng qua nhưng đôi khi kéo dài vài tuần vài tháng;

 

-Khởi sự đột ngột, rất mạnh kèm theo vài phản ứng của cơ thể như la làng khóc lóc, đổ mồ hôi, huyết áp lên cao, tim đập nhanh, tức giận. Cũng có người thản nhiên như không có chuyện gì xẩy ra.

 

Các nguyên nhân thông thường của Đau này là do thương tích, phỏng, gẫy xương, bong gân, giải phẫu, sanh đẻ, bệnh hoạn ở tình trạng nghiêm trọng.

 

Ngoài sự khó chịu, cơn đau cấp tính còn có vài tác dụng khác: báo hiệu, bảo vệ cho con người về nguy cơ và mức độ hư hao tế bào. Từ đó sẽ có một số phản ứng tự vệ như rút tay chân về, co bắp thịt hoặc thay đổi vị trí cơ thể để giảm đau như ôm bụng, nằm ngửa nằm nghiêng.

 

b-Đau kinh niên.

 

Đau kinh niên kéo dài khá lâu, sau thời gian lành của thương tích, bệnh hoạn hoặc có thể hết đi rồi tái xuất hiện. Đau này nhiều khi khó trị vì không chữa dứt được nguyên nhân gây ra đau;

 

 Trước đây đau kinh niên được hiểu như đau kéo dài dăm ba tháng. Bây giờ ngoài thời gian lâu mau, đau này còn bao gồm các hậu quả như gây ra mất ngủ, khó khăn trong nếp sống, suy sụp tinh thần, thể chất.

 

Nguyên nhân có thể là do chấn thương, hậu giải phẫu, ung thư, viêm xương khớp, bệnh dây thần kinh.

 

Ngoài ra ĐAU còn được phân chia làm nhiều nhóm tùy theo nguyên nhân thể chất:

 

a-Đau do thương tích hoặc bệnh hoạn ở ngoài hệ thần kinh như hơi nóng, độ lạnh, va chạm mạnh hoặc do hóa chất kích thích. Gẫy xương, bong gân, phỏng, cóng giá, viêm vì nhiễm trùng, viêm khớp...là những thí dụ.

 

 Đau này có tính cách bảo vệ vì nó báo cho ta hay có rủi ro xẩy ra mà ta phải tránh.

 

Cơn đau thường ngầm ngầm và tiêu tan khi vết thương lành.

 

b-Đau do tổn thương tế bào dây thần kinh ngoại vi hoặc trung ương như đau sau khi bị bệnh zona, tai biến não, trong bệnh tiểu đường, ghiền rượu kinh niên, ung thư, Hội chứng Đường Hầm Cổ Tay,  dây thần kinh bị u bướu đè lên...

 

Đau thường kéo dài cả tháng, đôi khi nhiều năm dù sau khi vết thương đã lành.

 

c- Đau hỗn hợp với thương tích trong ngoài thần kinh như với chứng thiên đầu thống, đau bắp thịt trên mặt.

 

d-Trường hợp Đau Chi Ma Quái  Phantom Limb Pain cũng rất đặc biệt. Người bệnh cảm thấy đau ở phần chân tay đã bị cắt cụt giống như cái đau ở phần chi đó trước khi được lấy đi. Đây là một loại đau rất khó hiểu trong y học.

 

Đặc tính cơn đau

 

a-Nơi đau.

 

Đau có thể tại chỗ như trên da, khớp xương, gân; thương tổn chỗ này mà đau chỗ khác như cơn đau tim angina lại đau ở cánh tay trái; viêm ruột dư góc dưới bụng bên phải lại đau nơi chấn thủy; đau dọc theo dây thần kinh như bệnh Zoster; đau toàn thân fibromyalgia.

 

b- Thời gian lâu mau.

 

Đau chớp nhoáng như kim châm; đau nhịp nhàng trong trường hợp thiên đầu thống migraine hoặc hư răng; từng cơn kéo dài khi đau ruột; đau tăng dần tới tột điểm, kéo dài một lúc rồi giảm như trong cơn đau tim angina; đau liên tục của viêm xương khớp; cơn đau kịch phát paroxysmal như tổn thương dây thần kinh.

 

c- Mức độ đau

 

Nhẹ ngoài da; đau dát; đau ngầm ngầm; đau quặn; đau như cắt, vặn ép; đau chớp nhoáng như điện giựt.

 

d- Đau kèm theo các khó khăn khác như buồn nôn, ói mửa, nổ đom đóm mắt, ù tai

 

Hậu quả Đau không điều trị.

 

Khi cơn đau kéo dài, cơ thể có một số đáp ứng sinh học để bảo vệ nhưng nếu kéo dài lâu hơn thì lại không tốt.

 

Chẳng hạn như khi đau tim không chữa thì tăng nhịp tim, huyết áp, sức cản thành mạch máu, sử dụng dưỡng khí, độ đông đặc máu. Hậu quả là mất cân, nóng sốt, tim phổi suy, kích xúc.

 

Đau cơ quan hô hấp kinh niên thì ta sẽ giảm nhịp thở và phổi sẽ bị viêm hoặc sưng.

 

Đau bao tử ruột thì các cơ quan này giảm nhu động để bớt đau khiến cho tiêu hóa chậm và đưa tới táo bón, kém dinh dưỡng, mất cân.

 

Cơ thể đáp ứng với đau xương khớp bằng co cứng bắp thịt, giảm cử động để bớt đau. Hậu quả là bất động, suy yếu, mệt mỏi.

 

Ngoài ra nếu không điều trị đúng đắn thì đau có nhiều nguy cơ trở thành kinh niên, đưa tới  không hoàn tất được các công việc thường nhật như ăn uống tắm rửa, vận động cơ thể hoặc trở nên buồn phiền lo âu mất ngủ, cô lập, khó khăn trong việc làm tình.

 

Đau kinh niên cũng đưa tới giảm sản xuất, kém lợi tức, vắng mặt tại sở làm, trường học, thất nghiệp.

 

Khó khăn điều trị

 

Đau là những khó khăn chủ quan nên chưa xác đinh được bằng đo lường khách quan, máy móc. Người bệnh diễn tả nhiều ít ra sao thì y giới theo đó mà sắp đặt phương thức điều trị, gia giảm liều lượng dược phẩm.

 

Nhiều vị nhất là cao niên không nói hết sự đau đớn vì sợ, vì không muốn cho là lắm chuyện hoặc vì thói quen chịu đựng hoặc không diễn tả được chi tiết, ngôn ngữ bất đồng.

 

Ngày 7 tháng 5 năm 2005 vừa qua, hệ thống thông tin ABC công bố kết quả một thăm dò do Bác sĩ Carmen R. Green thực hiện Kết quả cho thấy nhiều bác sĩ cung cấp ít điều trị cho nữ giới hơn là nam giới mặc dù họ có cùng một thứ đau.

 

Đi Khám Bác sĩ

 

Để giúp bác sĩ trị liệu, bệnh nhân nên để ý mấy điểm như sau:

 

a-Khi đi khám bệnh lần đầu vì Đau Nhức, nên ghi rõ thời gian  và hoàn cảnh đưa tới khó chịu, các giải phẫu bệnh tật đã có, phương thức điều trị đã áp dụng.

 

b-Mang tất cả thuốc men đã dùng, kết quả thử nghiệm, hình quang tuyến

 

b-Tả rõ đặc tính của cơn đau như là  đau kéo dài bao lâu, bắt đầu từ chỗ nào, lan ra đâu, đau nhiều hay ít, các yếu tố làm đau tăng hoặc giảm...

 

d-Các phương thức chữa đau hiện thời hoặc trong quá khứ, kết quả điều trị;

 

e-Trong gia đình có ai bị đau như vậy không"

 

g-Ảnh hưởng đau vào các sinh hoạt hàng ngày cũng như vào các chức năng cơ thể;

 

h-Ghi những điều muốn hỏi bác sĩ như nguyên nhân gây đau, chữa thế nào, tác dụng ngoại ý của điều trị, tương lai đau sẽ ra sao, mình phải làm gì, bác sĩ sẽ làm gì, có cần khám bác sĩ chuyên môn nào khác, bao giờ tái khám, các ước vọng của mình với điều trị.

 

Điều trị

 

Có nhiều cách điều trị các đau nhức:

 

1- Dược phẩm.

 

a-Thuốc chống đau không á phiện và không steroid

 

b-Thuốc chống đau có á phiện;

 

c- Các thuốc giảm đau hỗ trợ như thuốc trị bệnh kinh phong, trầm cảm, thuốc gây tê tại chỗ.

 

2-Không dùng dược phẩm như tâm lý trị liệu, phản hồi sinh học biofeedback, thư giãn, thôi miên, châm cứu, cây con thiên nhiên, vật lý trị liệu,  xoa bóp, chườm nóng lạnh, tập luyện, bó bất động

 

Các phương thức này có vai trò phụ trợ chứ không thay thế cho dược phẩm, giải phẫu. Ngoài công dụng giảm đau, phương thức này còn giúp người bệnh bớt lo lắng, tăng khả năng kiểm soát, đối phó với cảm giác đau, giúp ngủ ngon, thư giãn cơ thịt, vui sống hơn.

 

2- Giải phẫu.

 

Thường thường thì các phương thức điều trị kể trên đều có thể giảm đau đớn cho người bệnh. Tuy nhiên đôi khi cũng phải sử dụng tới phẫu thuật như thay khớp, cắt bỏ cung sau (lamicectomy) để giảm áp suất trên dây thần kinh, kết nối đốt sống (spinal fusion ), cắt dây thần kinh dẫn cảm giác đau...

 

3-Các kỹ thuật tân tiến: Một máy kích thích điện tử được cài vào cơ thể người bệnh để chặn không cho cảm giác đau lên não bộ; một máy bơm giỏ từng giọt thuốc giảm đau vào chỗ đau vừa tiết kiệm thuốc vừa tránh tác dụng ngoại ý.

 

4-Việc dùng cần sa, nicotine để giảm đau đang là đề tài tranh cãi. Theo một số nhà y học, cần sa công hiệu với các đau kinh niên ung thư. Nhưng mới giữa tháng Tư năm 2006 vừa qua, Cơ Quan Thực Dược Phẩm Hoa Kỳ không đồng ý việc hợp thức hóa dùng cần sa để giảm đau  vì “cần ngiên cứu thêm”. Riêng nicotine thì nghiên cứu tại Đại Học Columbia cho biết có thể giảm cảm giác đau..

 

5-Bác sĩ Harold Koernig, Đại Học Duke cho hay trong đau đớn có nhiều yếu tố liên hệ khác như lo sợ, trầm buồn, bực tức, mất hy vọng, cô đơn. Niềm tin tôn giáo giúp giải tỏa các cảm xúc này thì cũng giảm các cơn đau. Thăm dò của ABC News và nhiều bệnh nhân cũng đồng ý như vậy.

 

Tâm lý trị liệu cũng giúp bệnh nhân có kiến thức cặn kẽ về cơn đau và biết cách đối phó bằng thư giãn toàn thân.

 

Người bệnh cũng nên có một kế hoạch đối phó, thích nghi với khó khăn đau nhức. Họ cần hợp tác với thầy thuốc có kinh nghiệm để cùng tìm phương thức giảm thiểu; để ý tới các xúc động gây ra do đau nhức; nghỉ ngơi đầy đủ nhưng cũng không quên vận động cơ thể, dinh dưỡng cân bằng, nếp sống lành mạnh; không tự sống cô lập vì lý do đau mà nên gia nhập nhóm cùng cảnh ngộ để chia xẻ hỗ trợ lẫn nhau.

 

Ngoài ra có một vài ngộ nhận về điều trị đau kinh niên của giới cao niên mà ta cần để ý:

 

a-Đau nhức không phải là một thành phần trong tiến trình hóa già như nhiều người tưởng. Nhưng tuổi cao thường dễ có những đau lưng, nhức gối vì lý do khác nhau như thời tiết, hoặc từ các bệnh kinh niên và đều có thể điều trị được, bằng cách này hay cách khác.

 

b-Nhiều người cứ ngại khi dùng thuốc chống đau có thuốc phiện vì sợ bị ghiền. Thực ra dùng lâu có thể khiến bệnh nhân tùy thuộc vào thuốc nhưng không phải lúc nào cũng ghiền thuốc. Trước khi cho các thuốc này, bác sĩ thường cân nhắc kỹ càng từng trường hợp.

 

Kết luận

 

Đau Nhức không những là vấn đề sức khỏe cá nhân mà còn ảnh hưởng tới tình trạng kinh tế, xã hội của đất nước. Theo viện Quốc Gia Hoa Kỳ về An Toàn và Sức khỏe Nghề nghiệp thì hàng năm Đau Nhức đã đưa đến thất thoát cả trăm tỷ mỹ kim vì đau khiến công nhân không làm việc được, vì phí tổn chăm sóc điều trị.

 

Người bị đau nhức kinh niên có thể trở thành xa cách, cô lập với gia đình, bạn bè cũng như không chu toàn chăm sóc được con cái, vợ chồng. Và đó mới là điều đáng buồn, đáng quan tâm.

 

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

 

Texas-Hoa Kỳ

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày nay, có nhiều người lớn hơn bao giờ hết đang phải đối mặt với chứng rối loạn khả năng tập trung- thiếu khả năng chú ý, hay ADHD. Người ta nghi ngờ nguyên nhân chính của vấn đề này là do công nghệ hiện đại đang gây áp lực lên não bộ của họ. Trong khi có gần 10% trẻ em được chẩn đoán mắc chứng ADHD, một phân tích tổng hợp gần đây từ nhiều nghiên cứu cho thấy gần 6.8% người lớn mắc chứng ADHD – tăng từ 4.4% vào năm 2003.
Bộ não của chúng ta thường có khuynh hướng tìm kiếm và phản ứng với những điều mang lại sự hài lòng, gọi là phần thưởng. Khi chúng ta đói, bộ não hiểu rằng thức ăn là một phần thưởng, còn khi ta khát, nước sẽ là phần thưởng. Nhưng lạm dụng các chất gây nghiện như rượu và các loại thuốc có thể ảnh hưởng đến các con đường tìm kiếm phần thưởng tự nhiên trong bộ não, tạo ra những ham muốn khó kiểm soát và làm giảm khả năng kiểm soát hành vi của chúng ta.
Aissam Dam, cậu bé 11 tuổi, lớn lên trong một thế giới im lặng tuyệt đối. Em sinh ra đời đã bị điếc và chưa bao giờ nghe thấy bất kỳ tiếng động nào. Khi sống trong một cộng đồng nghèo ở Maroc, em đã học cách diễn đạt bằng ngôn ngữ ký hiệu do chính mình phát minh ra và không được đi học. Năm ngoái, sau khi chuyển đến Tây Ban Nha, gia đình đưa em đến gặp một chuyên gia về thính giác, người đã đưa ra một gợi ý đáng ngạc nhiên: Aissam có thể đủ điều kiện tham gia thử nghiệm lâm sàng sử dụng liệu pháp gen. Vào ngày 4 tháng 10, Aissam được đưa đến điều trị tại Bệnh viện Nhi đồng Philadelphia, trở thành người đầu tiên được điều trị bằng liệu pháp gen ở Hoa Kỳ cho bệnh điếc bẩm sinh. Mục đích là cung cấp cho em thính giác, nhưng các nhà nghiên cứu không biết liệu phương pháp điều trị này có hiệu quả hay không, và nếu có thì em sẽ nghe được bao nhiêu.
Sau mùa lễ cuối năm là lúc các bậc phụ huynh lo lắng về con đường đại học của con cháu mình. Những con số điểm, những chữ viết tắt như GPA, SAT và ACT sẽ làm phụ huynh nhức đầu và chúng ta sẽ bàn lại về vai trò các điểm này và nhất là tương quan giữa SAT và IQ trong khung cảnh của các thay đổi gần đây ở Mỹ. Năm ngoái, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ quyết định cấm dùng màu da, nguồn gốc sắc tộc để quyết định tuyển chọn một ứng viên, từ chối không cho Đại học Harvard thực hành “tác dụng khẳng định” (affirmative action) để tăng sỉ số da màu không được đại diện đúng mức so với tỷ lệ trong dân số nói chung. Một trong những biện pháp được dùng để giảm bớt sỉ số dân Á Châu là gạt bỏ kết quả kỳ thi SAT hoặc giảm bớt tầm quan trọng của SAT, vì người gốc Á Châu có điểm SAT cao hơn nhiều so với các sắc dân khác.
Hội chứng người cứng đơ (Stiff Person Syndrome – SPS) là một căn bịnh có thể gây co thắt dữ dội và làm suy nhược các cơ, nhưng hầu hết mọi người đều không biết gì về nó mãi cho đến cuối năm ngoái, khi nữ danh ca Celine Dion công bố tình trạng bịnh của mình. Chứng rối loạn thần kinh và tự miễn dịch hiếm gặp này được cho là chỉ ảnh hưởng đến 1 hoặc 2 người trong một triệu người – và hai phần ba trong số những người bị là phụ nữ.
Tạp chí Consumer Reports vừa công bố phát hiện rằng nhựa vẫn hiện diện “rộng rãi” trong thực phẩm bất chấp các nguy hại về sức khỏe, và kêu gọi các cơ quan chức trách đánh giá lại mức độ an toàn của nhựa khi tiếp xúc với thực phẩm trong quá trình sản xuất. Tổ chức vô vụ lợi này cho biết rằng 84 trong số 85 mẫu thực phẩm ở siêu thị và thức ăn nhanh mà họ vừa kiểm tra gần đây có chứa “chất hóa dẻo” (plasticizers) được gọi là phthalates, một loại hóa chất được sử dụng để làm cho nhựa bền hơn.
Cách đâu 30-40 năm, lúc người tỵ nạn Việt mới định cư ở Mỹ và bắt đầu làm quen với các tập tục kể những tập quán về y tế ở Mỹ, trong y giới Mỹ cũng như các nước tây phương khác đang tranh cãi rất nhiều về chỉ định có nên cắt bao quy đầu theo thông lệ (routine circumcision) cho trẻ em sơ sinh hay không. Thuật ngữ “circumcision”, gốc latinh “circumcisio”. Từ "cắt bao quy đầu" xuất phát từ các từ Latin circum và caedo (circum: “xung quanh”; caedo: “tôi cắt”), có nghĩa đen là "cắt xung quanh". Từ epitome trong tiếng Hy Lạp cũng có nguồn gốc từ gốc có nghĩa là "cắt" hoặc "vết mổ". Trong tiếng Hebrew (Do Thái), phép cắt bao quy đầu được gọi là “peritomy”, xuất phát từ tiếng Hy Lạp peritomy.
Người ta vẫn thường nói “You are what you eat” (Những gì bạn ăn thể hiện bạn là ai). Nhưng có lẽ sẽ đúng hơn khi nói rằng những gì chúng ta ăn sẽ khiến chúng ta có những cảm xúc gì, bởi vì những tiến bộ trong lĩnh vực dinh dưỡng tâm thần học cho thấy chế độ dinh dưỡng đóng một vai trò quan trọng đối với sức khỏe tâm thần của chúng ta.
Đặng Đình Bách: Tấm gương sáng về tinh thần đoàn kết cộng đồng và câu chuyện đau buồn về sự bất công cần phải khắc phục tại Việt Nam...
Việc thuốc trị béo phì Zepbound mới được thông qua đã bổ sung thêm lựa chọn cho các loại thuốc giúp giảm cân, nhưng nó cũng đi kèm với những thách thức về chi phí và khả năng tiếp cận, giống như các loại thuốc giảm cân khác trong cùng nhóm. Các loại thuốc trong nhóm này gồm chất chủ vận (agonists), hay chất bắt chước các hormone tự nhiên trong ruột có ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất của cơ thể và tín hiệu đói phát ra từ não. Nhưng các loại thuốc đã được chuẩn thuận, các phiên bản tổng hợp của các hormone này, là những phân tử có kích thước lớn nên quá trình sản xuất khá tốn kém và mất thời gian. Điều này khiến cho thuốc có giá cả đắt đỏ và ngày càng khan hiếm
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.