Hôm nay,  

Câu Chuyện Thầy Lang: Hiểu Biết Căn Bản Về Ung Thư

07/04/200600:00:00(Xem: 7310)
- Cách đây vài thập niên, khi được xác định bị ung thư thì nhiều bệnh nhân rụng rời chân tay, lo sợ. Vì mắc phải ung thư là coi như đời sống sẽ vô cùng ngắn lại. Ngoài ra sự thất vọng cũng gia tăng vì khi đó các hiểu biết về bệnh cũng còn giới hạn.

Sau nhiều năm nghiên cứu, khoa học đã có những khám phá tương đối rõ ràng hơn về nguyên nhân cũng như điều trị và cách thức phòng ngừa bệnh. Nhờ đó một số lớn ung thư có thể chữa khỏi nếu được tìm ra sớm.

Ngày 8 tháng 2 năm 2006, Hội Ung Thư Hoa Kỳ cho hay, lần đầu tiên trong 70 năm vừa qua, số tử vong vì ung thư đã giảm trông thấy. Đó là nhờ sự sớm khám phá ra bệnh và các phương thức trị liệu tân tiến. Ngoài ra ý thức giảm hút thuốc lá của công chúng cũng là đóng góp tích cực trong việc giới hạn bệnh ung thư phổi.

Vài hàng lịch sử.

Ung thư đã được biết tới từ thuở xa xưa.

Danh từ Cancer, được Hippocrates dùng đầu tiên, bắt nguồn từ chữ karcinos có nghĩa là con Cua, ngụ ý diễn tả những u bướu có nhánh tỏa ra chung quanh.

Y giới cổ Hi Lạp cho ung thư là do mất thăng bằng bốn chất lỏng trong cơ thể, nhất là khi mật từ gan tiết ra quá nhiều.

Gallen thì lại cho ung thư là do có quá nhiều máu sau khi cơ thể bị viêm nóng.

Đến thế kỷ 15, một số khoa học gia lại coi hệ bạch huyết có liên hệ tới ung thư.

Khi tế bào được khám phá qua kính hiển vi và được coi như đơn vị căn bản của cơ thể thì hiểu biết về ung thư rõ ràng hơn.

Ngày nay y khoa học đã chứng minh ung thư là do một số tế bào đột nhiên tăng sinh sản một cách bất bình thường và không kiểm soát được.

Diễn tiến ung thư

Nhắc lại là cơ thể được cấu tạo bởi cả nghìn nghìn tỷ đơn vị gọi là tế bào. Tế bào giúp ta thực hiện các chức năng chính của cơ thể như tuần hoàn, hô hấp, tiêu hóa, cử động, suy nghĩ.

Mô bào tăng trưởng và sinh sản tùy theo nhu cầu của cơ thể và trong một trật tự đã được quy định. Một tế bào thành hai, hai thành bốn và liên tục tiếp diễn.

Trong những năm đầu của cuộc đời, tế bào sinh sôi nẩy nở rất nhanh cho tới khi ta trưởng thành. Sau đó tế bào của hầu hết các bộ phận chỉ sinh ra để thay thế tế bào già yếu hoặc bị tiêu hủy vì bệnh hoạn, thương tích.

Khi tế bào tăng sinh một cách vô trật tự, không đáp ứng nhu cầu, không kiểm soát được và mất khả năng tự hủy thì chúng sẽ tạo ra một nhóm gọi là u bướu. U này có thể lành hoặc dữ.

Lành thì thu gọn, ít gây hiểm nghèo cho sức khỏe, không lan tới các nơi khác và có thể mổ cắt bỏ.

Trái lại u ung thư thì nguy hiểm hơn vì chúng lan sang các bộ phận xa gần. Đó là sự di căn. Tế bào ung thư không dính với nhau như tế bào thường, nên ngay từ khi mới thành hình, chúng đã có thể len lỏi vào mạch máu và lưu hành xâm nhập tới các cơ quan gần xa.

Khi di căn như vậy, nơi mà ung thư khởi sự vẫn được coi là ung thư chính. Thí dụ tế bào ung thư nhiếp tuyến chạy vào xương thì vẫn giữ các đặc tính của ung thư nhiếp tuyến. Ung thư gốc này có thể điều hòa sự tăng trưởng của u di căn. Và đôi khi cắt bỏ u gốc lại khiến u di căn lớn nhanh mạnh hơn.

Mới đầu, tế bào ung thư sống nhờ các chất dinh dưỡng thấm qua mạch máu. Sau đó chúng tự tạo ra một hệ thống dẫn máu riêng biệt để tự lực cánh sinh, phá hoại.

Thời gian từ khi tiếp xúc với tác nhân nguy hại tới khi khám phá ra bệnh kéo dài có khi cả mươi mười lăm năm. Đấy là thời gian mà nếu khám phá ra sớm thì có thể ngăn chặn sự thành hình hoặc giới hạn sự lan rộng của tế bào ung thư.

Có nhiều giải thích về sự thay đổi của tế bào ung thư. Xin đan cử một giải thích.

Theo bác sĩ L. Hebert Maurer, đại học Y khoa Darmouth sự hình thành ung thư diễn tiến qua hai giai đoạn:

Tác nhân gây ung thư xâm nhập một tế bào và gây rối loạn cho DNA. DNA là chất có trong mỗi tế bào và điều khiển mọi sinh hoạt của tế bào.

Ở tế bào bình thường, khi bị tổn thương thì DNA có thể sửa chữa được trong khi đó DNA tế bào ung khi bị hư hao thì bất khả tu sửa. Gen DNA này biến đổi và tế bào có khả năng trở thành ác tính.

Tiếp theo là một vài hóa chất trong tế bào lại hỗ trợ sự tăng sinh của tế bào nổi loạn và tạo ra u bướu.

Những rủi ro gây ra ung thư.

Ung thư không phải là một bệnh mà gồm vài trăm loại khác nhau. Chúng có thể xuất phát từ bất cứ nơi nào trong cơ thể với các hung tính riêng biệt.

Ai cũng có thể bị ung thư. Nhưng mắc bệnh hay không tùy thuộc vào một số yếu tố như nơi ở, nghề nghiệp, quá khứ sức khỏe của mỗi cá nhân và gia đình, gen di truyền, nếp sống hàng ngày.

Có nhiều rủi ro đưa tới ung thư mà một số đã được xác định qua dịch tễ học và qua các nghiên cứu khoa học. Đôi khi nhiều rủi ro kết hợp với nhau để gây ra một bệnh ung thư.

a-Tuổi tác.

Theo thống kê, ung thư xẩy ra nhiều hơn ở lớp tuổi ngoài 60. Một trong nhiều lý do là cần thời gian khá lâu để tạo ra các thay đổi trong cấu trúc tế bào trước khi ung thư thành hình và phát triển. Thành ra khi ta sống càng lâu thì càng có nhiều tích tụ các biến đổi bất thường và nhiều nguy cơ bị ung thư.

b- Thay đổi gene và có thể do di truyền. Chẳng hạn một số phụ nữ có sẵn biến đổi gene để bị ung thư nhũ hoa.

c-Do dinh dưỡng.

Một chế độ ăn uống với nhiều chất béo động vật, ít rau, trái cây, chất xơ hoặc một vài chất gia phụ thực phẩm đều có thể gây ra ung thư ruột già..

d-Suy yếu hệ miễn dịch.

Người với hệ miễn dịch suy yếu thường hay mắc một số bệnh ung thư, nhất là ung thư bạch cầu. Đó là những bệnh nhân bị nhiễm HIV, tiếp nhận ghép bộ phận và dùng thuốc ngăn ngừa sự chối từ cơ quan mới..

e-Do siêu vi khuẩn.

Virus bệnh viêm gan loại B có thể đưa tới ung thư gan; virus bệnh mụt cóc cơ quan sinh dục gây ra ung thư cổ tử cung.

g- Hóa chất gây ung thư.

Nhiều hóa chất dùng trong đời sống hàng ngày có thể gây ra ung thư như là:vật liệu cách nhiệt asbestos, vài hóa chất trong sơn với ung thư phổi; vài hóa chất trong thuốc nhuộm tóc gây ung thư bàng quang; benzene với ung thư máu…

h-Ung thư do nếp sống.

Uống rượu quá mức đưa tới ung thư miệng, thực quản; thuốc lá hút, nhai gây ung thư phổi, thực quản, bàng quang, cổ tử cung, tụy tạng; nhai trầu có thể gây ung thư miệng. Chỉ với hút thuốc lá đã là nguyên nhân tử vong của 1/3 bệnh nhân chết vì các loại ung thư.

i-Phóng xạ.

Tia tử ngoại trong nắng mặt trời là rủi ro chính gây ra ung thư da; phóng xạ bom nguyên tử gây ung thư bạch cầu ở nhiều nạn nhân người Nhật vào cuối thế chiến thứ hai; công nhân hầm mỏ tiếp xúc lâu ngày với uranium có thể bị ung thư phổi

Ngoài ra, vài dược phẩm như kích thích tố nữ Diethylstilbestrol đã được coi như rủi ro gây ung thư gan, tử cung; người kém lợi tức bị ung thư nhiều hơn giới trung lưu; tín đồ vài tôn giáo như Mormon và Seventh-Day Adventists ít bị hơn. Có lẽ vì các vị này chừng mực trong đời sống và dinh dưỡng, không rượu, thuốc lá.

Ung thư có thể gây bệnh ở bất cứ tế bào của mọi cơ quan và vào bất cứ tuổi nào. Nhưng nhũ hoa, ruột già, nhiếp tuyến, bao tử, tụy tạng, bàng quang, phổi, da, tử cung là những nơi thường thấy.

Những dấu hiệu của nguy cơ bị ung thư.

Tùy theo loại, ung thư có những dấu hiệu báo trước như sau:

a-Thay đổi thói quen đại tiểu tiện;

b-Một vết thương lâu lành;

c-Xuất huyết hoặc tiết dịch bất thường ở một cơ quan;

d-U cục ở nhũ hoa hoặc các phần mềm;

e-Không tiêu và khó khăn khi nuốt thức ăn;

g-Có những mụt cóc hoặc nốt ruồi mole trên da

h-Ho khan hoặc khản tiếng.

Nếu có một trong những dấu hiệu trên, xin đi khám bác sĩ ngay để được khám nghiệm thêm. Nếu chẳng may bị ung thư thì bệnh sẽ mau khỏi nếu được điều trị sớm.

Khám nghiệm phát hiện ung thư

Cho tới nay, 80% các trường hợp ung thư đều được xác định ở giai đoạn 2 hoặc 3 nên việc điều trị bị giới hạn. Do đó Viện Ung Thư Hoa Kỳ đưa ra các hướng dẫn sau đây để sàng lọc screening một số ung thư trước khi có dấu hiệu bệnh, cũng như để giảm tử vong và có thể áp dụng phương thức trị liệu hữu hiệu, ít tốn kém.

Phụ nữ

a-Tuổi từ 18-39

Ung thư nhũ hoa: Khám nhũ hoa mỗi ba năm do bác sĩ; tự khám mỗi tháng; chụp X-quang nhũ hoa trong tuổi 35-39.

Ung thư cổ tử cung: khám tử cung và làm xét nghiệm tế bào cổ tử cung (Pap Smear) mỗI năm.

b-Tuổi 40 trở lên

Ung thư nhũ hoa và cổ tử cung: như trên.

Đàn ông

a-Tuổi 15 trở lên

Thiếu niên cần tự khám ngọc hành mỗi tháng vì từ tuổi 15 tớI 34 là thời gian có nhiều nguy cơ ung thư hai viên kim cương qúy gíá này.

b-Đàn ông trên 40 tuổi

Hàng năm khám hậu môn để coi tình trạng lớn nhỏ của nhiếp tuyến. Nếu cần làm thử nghiệm mức độ kháng nguyên nhiếp tuyến đặc biệt trong máu Prostate Specific Antigen.

Nam Nư:

a-Tuổi 40-50

Khám hậu môn mỗi năm để phát hiện ung thư trực tràng.

b-Tuổi trên 50

Hàng năm khám hậu môn và thử phân coi có lẫn máu.

Mỗi năm năm làm nội soi trực tràng và ruột già một lần.

Giảm thiểu nguy cơ bị ung thư

Nguyên nhân gây ra ung thư còn nhiều còn nhiều bí ẩn cần xác định, nhưng một số rủI ro gây ra ung thư có thể tránh được.

a-Hút thuốc là là nguyên nhân chính của ung thư phổi; vậy thì không nên hút thuốc. Thuốc lá là nguyên nhân gây tử vong cho 30% trường hợp ung thư phổi.

b-Tránh tiếp cận với ánh nắng gay gắt để giảm thiểu nguy cơ bị ung thư da;

c-Giảm cân; ăn nhiều rau trái cây; giảm muối dể giảm ung thư ruột.

d-Nếu uống rượu thì uống vừa phải;

e-Theo Hội Ung Thư Hoa Kỳ, “ăn uống đúng đắn, tăng hoạt động cơ thể và đừng để mập phì là những phương thức tốt để giảm rủi ro ung thư”.

Kết luận:

Mặc dù sự tiến bộ của y khoa học đã mang lại nhiều triển vọng tốt đẹp trong việc phát hiện và phòng ngừa, nhưng ung thư vẫn còn là bệnh chữa được nhưng tốn công tốn của. Và biến chứng của bệnh cũng rất nhiều. Bệnh nhân chịu những đau đớn về thể chất và tinh thần, với tổn thương trầm kha ở các bộ phận khác như tim, phổi, thần kinh. Họ sẽ ăn mất ngon, ngủ không yên,gầy mòn, ói mửa, kinh phong. Giai đoạn cuối của bệnh là lúc có nhiều khó khăn nhất

Theo bác sĩ Isadore Rosenfeld, giáo sư Trung Tâm Y Khoa Cornel, 35% ung thư có liên hệ tới thực phẩm ăn uống, 30% gây ra do hút thuốc lá, 4% do nghề nghiệp, 3% do tiêu thụ nhiều rượu, 2% do ô nhiễm.

Cho nên nếu áp dụng các phương thức phòng ngừa bệnh để tránh các khó khăn này là điều tưởng như cũng nên làm vậy.

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

Texas-Hoa Kỳ

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Người ta thường nói rằng tất cả chúng ta rồi sẽ trở nên mất trí nhớ - trừ khi chết vì ung thư hoặc bệnh tim mạch. Tất nhiên, có những người chết vì các bệnh khác, tai nạn hoặc tự tử. Nhưng chính chứng mất trí nhớ, ung thư và bệnh tim mạch lại chiếm ưu thế trong danh sách về nguyên nhân tử vong. Tuy nhiên, việc điều trị bệnh tim mạch đã tiến bộ và tỷ lệ sống sót hiện nay cao hơn nhiều. Ung thư đã từ một bản án tử hình trở thành một căn bệnh có thể điều trị được - mặc dù vẫn có những biến thể mà tỷ lệ tử vong gần một trăm phần trăm.
Một nhóm nghiên cứu tại Đại học Lund, Thụy điển đã tìm ra một phương pháp để có thể phát hiện sớm các bệnh nghiêm trọng trong não, chẳng hạn như bệnh Parkinson, bằng cách thử dịch tủy sống sau lưng. Và họ cho biết rằng dấu hiệu ban đầu của bệnh là giảm khứu giác, tin từ Đài truyền hình Thụy điển. Tại Phòng khám Trí nhớ ở thành phố Malmö, Thụy điển, các bác sĩ lấy dịch tủy sống từ những người tình nguyện tham gia nghiên cứu bằng một cây kim vào giữa hai đốt ở cột sống, qua thử nghiệm đó các nhà nghiên cứu biết người đó có khả năng mang chứng bịnh thể Lewy* không? Các chứng bịnh thể Lewy là thuật ngữ chung cho bệnh Parkinson và chứng mất trí nhớ thể Lewy, hay còn gọi là sa sút trí tuệ Lewy.
Theo tờ Smithsonianmag, trong một cuộc phẫu thuật thử nghiệm đột phá, các khoa học gia đã điều trị cho bốn bệnh nhân bị thương nặng ở một mắt bằng cách cấy ghép tế bào gốc từ mắt còn lại. Ula Jurkunas, bác sĩ nhãn khoa tại Massachusetts Eye and Ear và là tác giả đầu tiên của nghiên cứu mới, cho biết: “Báo cáo từng trường hợp cụ thể về bốn bệnh nhân cho thấy một số thông số đã có sự cải thiện, đồng thời cơn đau cũng như các triệu chứng khó chịu đều có giảm bớt.”
Các bác sĩ tại NYU Langone Health trong tuần qua cho biết ca ghép thận heo (đã biến đổi gen) cho một người đàn ông (đã chết não) thành công và thận vẫn tiếp tục hoạt động sau 32 ngày, tờ Washington Post đưa tin. Đây là một bước tiến lớn tới khả năng cấy ghép dị chủng. Theo báo cáo, trong vài phút đầu tiên sau khi được cấy ghép, trái thận không bị cơ thể người nhận đào thải – điều này thường là một vấn đề lớn trong cấy ghép dị chủng (sử dụng cơ quan từ loài khác để cấy ghép). Trái thận đã bắt đầu sản xuất nước tiểu và đảm nhận các chức năng của thận người như đào thải các chất độc.
Nếu thuở nhỏ quý vị từng bị rầy la vì vụ đọc sách, truyện trong bóng tối hoặc nếu có xài mắt kính chặn ánh sáng xanh khi làm việc trên máy tính, thì có thể quý vị chưa hiểu đúng về sức khỏe của mắt. Theo Cơ Quan Kiểm Soát và Phòng Bịnh (CDC), ở Hoa Kỳ cứ 10 người trưởng thành thì có khoảng 4 người có nguy cơ cao bị suy giảm thị lực. Bác sĩ Joshua Ehrlich, giảng sư về nhãn khoa và khoa học thị giác tại Trường Michigan cho biết, có nhiều bịnh về mắt có thể điều trị hoặc phòng ngừa được. Và sau đây là một số niềm tin phổ biến của mọi người về thị lực và những nhận xét của các chuyên gia.
Gần đây các tin thời sự nói nhiều về vấn đề sinh sản. Những nước Á châu đang phát triển kinh tế tột bực như Nhật, Đài Loan và Đại Hàn đều gặp phải vấn đề mức sinh sản quá thấp. Phụ nữ các xứ này học càng ngày càng lâu, lập gia đình chậm hoặc từ chối lập gia đình, có con ít hoặc chọn lựa không sinh con cái để tiếp tục sự nghiệp cá nhân, nếp sống tự do không vướng bận con cái, hoặc lo ngại không đủ tiền của để giáo dục nuôi dưỡng một đứa trẻ.
Một nhóm các nhà nghiên cứu vây quanh Keith Thomas, 45 tuổi, và nhìn chằm chằm vào bàn tay phải của ông. “Mở ra nào, mở ra nào, mở ra nào,” họ thúc giục, và reo hò khi những ngón tay của Thomas xòe ra và cuộn lại theo các hình ảnh trên màn hình máy tính. Vào tháng 7 năm 2020, bị tai nạn trong một chuyến đi lặn, Thomas bị liệt từ ngực trở xuống. Nhưng giờ đây, ông đã có thể cử động tay trở lại sau một thử nghiệm lâm sàng thực hiện bởi các nhà nghiên cứu từ Feinstein Institutes for Medical Research của Northwell Health ở New York.
Mùa hè đang vẫy gọi với những chuyến du lịch sôi động, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi số ca nhiễm COVID-19 dần tăng trở lại. Một số tiểu bang ở Hoa Kỳ, số người phải vào bệnh viện do COVID-19 cũng đang tăng, đặc biệt là những người cao niên. Theo Cơ Quan Kiểm Soát và Phòng Bịnh (CDC), số người phải vào bệnh viện hàng tuần đã tăng nhẹ kể từ giữa tháng 6, từ khoảng 6,300 ca lên hơn 8,000 ca trong tuần kết thúc vào ngày 22 tháng 7. Kể từ khi kết thúc tình trạng khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng do COVID-19 vào tháng 5, CDC không còn báo cáo về số ca nhiễm COVID-19 trên toàn quốc. Điều này có nghĩa là các sở y tế của tiểu bang không còn phải báo cáo dữ liệu này cho CDC.
Giác mạc (cornea) là một lớp mô cứng, trong suốt bao phủ phía trước mắt. Nó giúp tập trung ánh sáng vào võng mạc (retina). Nếu giác mạc bị tổn thương do bệnh tật hoặc chấn thương, nó có thể gây ảnh hưởng đến thị lực. Trên toàn thế giới, gần 13 triệu người bị mù do các vấn đề về giác mạc.
Các phòng khám ‘lang băm’ hô hào có bán các liệu pháp tế bào gốc (stem cell therapies) mọc lên nhan nhản khắp mọi nơi. Trên thế giới, có hàng ngàn phòng khám, cơ sở tuyên bố có thể chữa được bách bệnh, từ bệnh tự kỷ cho đến bại não. Những nơi có nhiều ‘phòng khám trị liệu tế bào gốc’ nhất là ở Hoa Kỳ, Mexico, Ấn Độ và Trung Quốc. Rất nhiều người đang đi khắp mọi nơi để tiếp cận những phương pháp điều trị này, dẫn đến một hiện tượng được gọi là du lịch tế bào gốc (stem cell tourism).
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.