Hôm nay,  

Đọc Báo Y Khoa: Những Loại Bệnh Thường Gặp

03/02/200700:00:00(Xem: 5246)

Đọc Báo Y Khoa: Những Loại Bệnh Thường Gặp

Trong báo Journal of Family Practice, December 2006, có mấy vấn đề cần lưu ý khi trẻ em tới phòng mạch khám bệnh:

1) Chích ngừa thuốc chủng HPV (Gardesil) cho trẻ em gái hay phụ nữ từ 9 tới 26 tuổi. Đây là thuốc chủng đầu tiên ngừa ung thư cổ tử cung. Thuốc chống siêu vi trùng herpes số 6, 11, 16, và 18, và 80% siêu vi trùng loại này gây ung thư cổ tử cung. Khuyến cáo nên chích ngừa cho tất cả phụ nữ từ 9 tới 26 tuổi nhưng tốt nhất cho những ai chưa có tình dục. Thuốc chủng ngừa ung thư cổ tử cung chích 3 lần: 0, 2 và 6 tháng và có thể chích chung với những thuốc chủng khác như MCV4. Tdap và Td.

2) Không thể bỏ qua những chích ngừa khác cho trẻ vị thành niên như: chích ngừa sưng màng óc (meningococcal vaccine). Trẻ em tuổi từ 11-12 nên chích ngừa sưng màng óc (meningitis). Trẻ em lớn tuổi cũng nên chích ngừa sưng màng óc đặc biệt những sinh viên phải ở trong cư xá (dorm). Chích ngừa phong đòn gánh và bạch hầu Tdap nên dành cho trẻ em từ 11 hay 12 tuổi, nhưng cũng có thể chích cho những người lớn tuổi hơn, tùy theo thuốc chủng, như Boostrix cho những người từ 11 tới 18, hoặc Adacel cho người từ 11 tới 64. Bây giờ cũng khuyến cáo chủng ngừa bệnh trái rạ cho trẻ từ 12-15 tháng và 4-6 tuổi. Chích MMR (ban đỏ, quai bị và bệnh sởi Đức, Rubella) dùng loại thuốc chủng mới MMRV (Proquad).

Ngay cả trẻ vị thành niên hay người lớn, nếu chưa bị trái rạ, cũng nên chích 2 liều, cách 3 tháng một lần. Nếu đã chích một mũi rồi thì nên chích mũi thứ 2.

3) Ngoài ra, bệnh nhân cần khám tổng quát, cân đo chiều cao, đo huyết áp, chỉ dẫn cách ăn uống lành mạnh, tập thể dục, và kiểm soát ghiền ma túy. Truy tầm vi trùng Chlamydia hay Gonococcus cho phụ nữ trong thời kỳ tình dục kể cả siêu vi trùng liệt kháng HIV.

Truy tầm bệnh trẹo xương sống (scoliosis), truy tầm ung thư tinh hoàn cho các em trai, truy tầm siêu vi trùng herpes, tìm hiểu vấn đề uống rượu, truy tầm cao huyết áp, vấn đề ưu trầm, bạo lực trong gia đình, truy tầm hút thuốc lá, bệnh mập, ma túy, chỉ dẫn những cách tránh thương tích (JFP, 55: 1054, 2006).

4) Để ý bệnh viêm cuống họng và sưng thịt dư cổ họng (pharyngotonsillitis) do vi trùng nhóm A beta-hemolytic streptococci. Phải định bệnh kịp thời, phòng ngừa phong thấp "rheumatic fever", điều trị bằng trụ sinh hay kháng sinh. Chích Penicilline thường dùng nhất nhưng bây giờ chỉ hiệu nghiệm khoảng 35%. Tùy theo trường hợp cá nhân nhưng bây giờ có thể dùng cephalosporins, nếu có vấn đề dị ứng với penicillin. Một số khuyến cáo dùng Cephalosporins trong trường hợp bệnh nhân có vi trùng tiết chất beta-lactamase, đã từng dùng kháng sinh vì bị đau viêm sưng cuống họng và thịt dư cổ họng trở đi trở lại nhiều lần, hoặc đã không thành công trong việc điều trị viêm sưng thịt dư (Tonsillitis) và đau cổ họng (Pharyngitis), hoặc đã từng bị kháng trụ sinh (JFP, 55: S1, 2006).

Trong báo Current Obstetrics and Gynocology, 16: 315, 2006, có bài Sản Phụ Bị Cao Huyết Áp. Bs Fatimir Soydemir và Bs Louise Kenny thuộc Đại Học Manchester, Anh Quốc, và Đại Học Cork, Ái Nhĩ Lan, nghiên cứu phụ nữ có bầu bị cao huyết áp vơí tiền kinh sản (Preeclampsia). Bệnh Preeclampsia đứng đầu nguyên nhân tử vong khi phụ nữ có thai.

Theo WHO thì mỗi năm có khoảng 100,000 sản phụ bị tử vong trên thế giới vì Preeclampsia. Nguyên nhân thứ hai khiến sản phụ bị biến chứng vì cao huyết áp là do chảy máu não, tai biến mạch máu não. Phòng ngừa tai biến mạch máu não cho sản phụ bị cao huyết áp chưa được hoạch định rõ ràng. Các tác giả khuyến cáo cần hiểu rõ thêm cơ nguyên tai biến máu não và cao huyết áp của sản phụ để hy vọng tìm kiếm phương pháp điều trị hữu hiệu hơn.

(Chú thích: Khi nói sản phụ bị cao huyết áp tức là huyết áp cao hơn 140/90. Khi đàn bà có thai thì việc đầu tiên phải là kiểm chứng huyết áp. Sản phụ bị Preeclampsia vì huyết áp cao là biến chứng nguy hiểm nhất trong khi có bầu, vì hiện nay chưa biết rõ nguyên nhân. Có người cho rằng bệnh xuất phát từ lúc bào thai bắt đầu trong tử cung. Bình thường thì mạch máu thư dãn trong lúc bào thai nằm trong tử cung. Nhưng khi mạch máu co lại sẽ gây bệnh cao huyết áp. Một số nguy cơ giữa khi có bầu và cao huyết áp như: có con lần đầu tiên, có tiểu sử bệnh tiểu đường, có tiểu sử cao huyết áp trước khi có bầu, hoặc sản phụ có thể sinh 2 hay 3 con. Khi có thai bị máu cao có 3 trường hợp:

1) có bầu mà chỉ bị cao huyết áp,

2) Bị tiền kinh sản (Preeclampsia), nước tiểu có bạch đản (protein).

3) Bị kinh sản (Eclampsia) lên cơn kinh phong và hôn mê, thường phát hiện lúc sắp sinh con. Một số triệu chứng có thể xuất hiện khi có bầu bị cao máu như:

1. áp xuất cao 140/90 hay cao hơn,

2. thận suy khiến bạch đản xuất hiện trong nước tiểu,

3. sưng chân, đặc biệt sưng mặt hay sưng cổ,

4. cân lượng tăng cao,

5. mắt mờ hay nhìn một vật thành hai vật,

6. nhức đầu,

7. ánh sáng lóe trong mắt,

8. tiểu ít,

9. đau bụng,

10. ói mửa hay chóng mặt.

Trong báo Seminar Muscular Skeletal Radiology, 10: 197, 2006, có bài Chụp Hình MRI Cho Lực Sĩ Bị Đau Háng. Bs Eoin C. Kavanath và các đồng nghiệp dùng MRI chụp hình háng khi lực sĩ  bị đau háng. Nhờ chụp MRI có thể phân biệt được những nguyên nhân gây bệnh đau háng của lực sĩ. Cũng nhờ đó điều trị hữu hiệu và chính xác hơn.Trong bài này, các tác giả trình bày những hình ảnh khác nhau, những trường hợp khác nhau, khi bệnh nhân lực sĩ bị đau háng. Các tác giả bàn luận cơ nguyên gây thương tích háng của lực sĩ, đồng thời trình bày những hình ảnh MRI và những triệu chứng khác nhau khi lực sĩ bị đau háng.

(Chú thích: Khoảng 5% lực sĩ bị đau háng kinh niên. Nhiều lực sĩ bị đau háng cả năm mà không bao giờ đi khám bệnh. Nạn sa ruột (hiatal hernia) cũng làm đau háng, thông thường nhất khi lực sĩ chơi hockey hay đá banh. Thường thì bệnh nhân cảm thấy đau sâu trong háng, nhất là sau khi tập thể thao. Nhưng dần dần bệnh nhân bị đau háng nhiều hơn, nhất là khi lên xe hay xuống xe. Nếu đã bị thương tích ở háng một lần rồi thì dễ bị đau trở lại. Có khi đau háng kinh niên làm bắp thịt co lại khiến háng bị lệch. Chụp hình MRI có thể xác định được độ trầm trọng thương tích khi lực sĩ bị đau háng).

Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D.; E-mail: nmtran@hotmail.com; Xin mời quí vị ghé thăm Y Dược Ngày Nay (www.yduocngaynay.com), một Trang Web Y Khoa của người Việt viết cho người Việt.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tập đoàn Nhân sâm Hàn Quốc tại Hoa Kì (KGCUS), nơi sản xuất thương hiệu nhân sâm số một thế giới CheongKwanJang, tự hào giới thiệu thức uống thảo dược có ga HSW kết hợp hồng sâm 6 năm tuổi, tới các khách hàng quan tâm đến sức khỏe tại WaBa Grill, một trong những chuỗi nhà hàng hàng đầu chuyên phục vụ món cơm lành mạnh
Thỉnh thoảng chúng ta mới thấy một thứ thuốc mới làm chấn động không những giới y tế mà còn làm chấn động thị trường kinh tế thế giới. Thí dụ trước đây là thuốc phục vụ trong những nhu cầu căn bản và mạnh mẻ nhất của con người, Viagra, thuốc giúp chữa chứng rối loạn cương cứng (ED) của nam giới, do Pfizer phát triển, đã có tác động kinh tế đáng kể đến ngành dược phẩm kể từ khi được FDA phê duyệt vào năm 1998. Viagra là loại thuốc mang lại lợi nhuận cao cho Pfizer, doanh thu toàn cầu khoảng 1,6 tỷ USD trong năm 2016 mặc dù đã có thuốc generic rẻ tiền hơn nhiều.
Ung thư khởi phát khi các tế bào tích tụ những tổn hại đủ để thay đổi hành vi bình thường của chúng. Khả năng tích tụ tổn hại tăng theo độ tuổi vì các biện pháp bảo vệ trong mã di truyền, nhằm đảm bảo các tế bào hoạt động vì lợi ích tối ưu của cơ thể, sẽ suy yếu theo thời gian. Vậy thì tại sao những đứa trẻ chưa có đủ thời gian để các tế bào tích tụ tổn hại lại có thể mắc bệnh ung thư? Nếu nhìn qua lăng kính tiến hóa, ung thư phát triển từ sự ‘bất hợp tác’ của tế bào, vốn ban đầu các tế bào sẽ cùng kết hợp với nhau và hoạt động như một cơ quan. Ở trẻ em, các tế bào vẫn đang học cách hợp tác. Ung thư ở trẻ em khởi phát khi xuất hiện các tế bào ‘nổi loạn’ không chịu hợp tác và cứ phát triển bất chấp, gây tổn hại cho cơ thể.
Bộ não con người có thể thay đổi – nhưng thường với nỗ lực rất lớn và diễn ra từ từ, chẳng hạn như khi chúng ta học một môn thể thao hoặc ngoại ngữ mới, hoặc hồi phục sau cơn đột quỵ. Học các kỹ năng mới có tương quan với những thay đổi trong não; điều này đã được nghiên cứu khoa học thần kinh với động vật và quét não chức năng ở người chứng minh. Có lẽ, nếu quý vị thành thạo Giải tích 1 (Calculus 1), thì trong não quý vị sẽ có điều gì đó khác một chút. Các tế bào thần kinh vận động trong não mở rộng và co lại tùy thuộc vào tần suất chúng được vận động – một sự phản ánh của tế bào thần kinh về việc “xài hoặc mất” (use it or lose it).
Chẳng có ai vừa ra khỏi bụng mẹ là đã biết trượt ván, lướt sóng hay thậm chí là đứng kiễng chân. Không giống như các loài động vật hữu nhũ khác, con người không có khả năng giữ thăng bằng khi mới sinh – không có em bé sơ sinh nào vừa đẻ ra là đã biết đi hoặc đứng. Trước khi có được những khả năng đó, trẻ sơ sinh sẽ phát triển thị giác, thính giác, cơ, xương và não. Quá trình này mất nhiều tháng và thậm chí là nhiều năm đối với một số hoạt động.
Hội đồng Nobel tại Viện Karolinska đã quyết định trao giải thưởng Nobel về sinh lý học hoặc y học năm 2023 cho hai khoa học gia người Mỹ Katalin Karikó (gốc Hungary) và Drew Weissman hôm nay ngày 2 tháng 10, 2023, vì những khám phá của họ liên quan đến việc biến đổi base của các nucleoside (nucleoside base modifications) cho phép phát triển vắc xin mRNA hiệu quả chống lại COVID-19
Một nhóm các nhà nghiên cứu đã phát triển một phương pháp mới để nghiên cứu cách các gen có thể gây ra bệnh tự kỷ và các bệnh rối loạn về phát triển não bộ (neurodevelopmental disorders) khác: phát triển các cấu trúc nhỏ tương tự như bộ não trong phòng thí nghiệm và điều chỉnh DNA của chúng.
Trung tâm kiểm soát bệnh Hoa Kỳ CDC vừa đưa ra các khuyến nghị về thuốc chủng ngừa Covid cho mùa thu này sau khi thuốc được Cơ quan Quản trị Thực phẩm và Thuốc (FDA) của Hoa Kỳ chuẩn thuận hôm thứ hai, ngày 12 tháng 9, 2023. Sau đại dịch Covid mấy năm vừa qua, kiến thức của quần chúng về các bệnh nhiễm, các thuốc chủng ngừa (vắc xin) đã tăng lên nhiều, cũng như óc phê phán và sự nghi ngờ đối với các biện pháp y tế hay phòng ngừa do chính quyền hay các cơ quan như CDC đề xướng, lắm khi gắn liền với lập trường chính trị của mỗi người, có khi tuỳ theo tiểu bang. Bài sau đây chỉ có tính cách thông tin, dựa trên những nguồn tin tức mà người viết nghĩ là đáng tin cậy. Độc giả cần tham khảo với người săn sóc y tế cho mình để đi tới quyết định có nên dùng vắc xin nào hay không. Sau đây là những điểm chính của các thông báo của CDC cho báo chí, kèm theo chú thích để bàn thêm
Vitamin D là chất dinh dưỡng quan trọng và cần thiết cho sức khỏe. Nó giúp xây dựng và duy trì xương chắc khỏe, đồng thời hỗ trợ chức năng cơ bắp và miễn dịch. Nhưng hầu hết mọi người trên thế giới đều bị thiếu vitamin D, khiến cho nó trở thành loại supplement phổ biến nhất trên thị trường
Lập một kế hoạch điều trị trầm cảm có thể là một thách thức khó khăn. Điều này đặc biệt đúng đối với những bệnh nhân không đáp ứng với các phương pháp điều trị thông thường và đang trải qua các liệu pháp thử nghiệm như kích thích các nhân sâu trong não (Deep Brain Stimulation – DBS). Đối với hầu hết các tình trạng bệnh lý, bác sĩ có thể trực tiếp đo lường bộ phận đang được điều trị, chẳng hạn như đo huyết áp đối với các bệnh về tim mạch. Những thay đổi có thể đo lường đóng vai trò là dấu ấn sinh học khách quan (objective biomarker) của quá trình phục hồi, cung cấp các thông tin đáng giá về cách chăm sóc bệnh nhân.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.