Hôm nay,  

Nghiên Cứu Mới: Một Số Dấu Ấn Sinh Học Khách Quan Có Thể Giúp Điều Trị Trầm Cảm Chuẩn Xác Hơn

06/10/202300:00:00(Xem: 860)
tram cam
Nghiên cứu mới cho thấy, kích thích các nhân sâu trong não có thể làm thuyên giảm chứng trầm cảm ở một số bệnh nhân. (Nguồn: pixabay.com)
 
Lập một kế hoạch điều trị trầm cảm có thể là một thách thức khó khăn. Điều này đặc biệt đúng đối với những bệnh nhân không đáp ứng với các phương pháp điều trị thông thường và đang trải qua các liệu pháp thử nghiệm như kích thích các nhân sâu trong não (Deep Brain Stimulation – DBS). Đối với hầu hết các tình trạng bệnh lý, bác sĩ có thể trực tiếp đo lường bộ phận đang được điều trị, chẳng hạn như đo huyết áp đối với các bệnh về tim mạch. Những thay đổi có thể đo lường đóng vai trò là dấu ấn sinh học khách quan (objective biomarker) của quá trình phục hồi, cung cấp các thông tin đáng giá về cách chăm sóc bệnh nhân.
 
Trái lại, đối với trầm cảm và các chứng rối loạn tâm thần khác, bác sĩ lâm sàng phải dựa vào các khảo sát chủ quan và không đặc hiệu, hỏi bệnh nhân về các triệu chứng của họ. Vậy khi một bệnh nhân nói với bác sĩ rằng họ đang có những cảm xúc tiêu cực, thì đó là vì chứng trầm cảm tái phát hay chỉ là họ đã trải qua một ngày tồi tệ như bao người? Họ lo lắng vì có những cảm giác mới khi các triệu chứng trầm cảm đã thuyên giảm, hay bởi vì một số vấn đề khác không liên quan đến chứng trầm cảm? Mỗi lý do có thể đưa đến một biện pháp khác nhau, chẳng hạn như thay đổi loại thuốc, giải quyết một vấn đề trong liệu pháp tâm lý hoặc tăng cường độ điều trị kích thích não.
 
Trong nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí Nature, các nhà nghiên cứu đã xác định được các dấu ấn sinh học tiềm năng để kích thích các nhân sâu trong não, trong tương lai có thể giúp các bác sĩ lâm sàng và bệnh nhân định hướng khi đưa ra quyết định điều trị để giúp thuyên giảm chứng trầm cảm.
 
Dấu ấn sinh học cho bệnh trầm cảm
 
Một số lượng bệnh nhân đáng kể mắc bệnh trầm cảm lâm sàng không đáp ứng với các liệu pháp điều trị hiện có. Các nhà nghiên cứu đang nỗ lực tìm kiếm các lựa chọn thay thế nhằm chữa trị cho những người bị trầm cảm không đáp ứng điều trị. Hàng loạt thí nghiệm trong nhiều thập niên đã xác định được các mạng lưới não nào có hoạt động điện não bất thường ở những người bị trầm cảm.
 
Khái niệm trầm cảm này được hiểu là hoạt động bất thường của não chứ không phải là sự mất cân bằng hóa học trong não. Nó đã dẫn đến sự phát triển của phương pháp kích thích các nhân sâu trong não để điều trị trầm cảm. Người ta sẽ cấy ghép một thiết bị giống như máy tạo nhịp tim để truyền xung điện đến một số vùng nhất định của não. Các nghiên cứu thử nghiệm kỹ thuật này đã phát hiện ra rằng nó có thể làm giảm mức độ trầm cảm theo thời gian ở hầu hết bệnh nhân.
 
Nhóm nghiên cứu muốn tìm ra những thay đổi cụ thể trong các hoạt động của não, có thể đóng vai trò là dấu ấn sinh học, để đo lường một cách khách quan mức độ cải thiện tình trạng của bệnh nhân trầm cảm sau khi sử dụng phương pháp DBS. Họ đã theo dõi hoạt động não của 10 bệnh nhân được sử dụng phương pháp DBS trong hơn sáu tháng để điều trị treatment-resistant depression.
 
Vào cuối giai đoạn 6 tháng, 90% bệnh nhân đáp ứng với liệu pháp – giảm tối thiểu một nửa các triệu chứng – và 70% đã thuyên giảm trầm cảm lâm sàng.
 
Để xác định dấu ấn sinh học tiềm năng, nhóm nghiên cứu đã phát triển một thuật toán tìm kiếm các mô hình thay đổi hoạt động của não khi bệnh nhân hồi phục, dựa trên dữ liệu từ 6 trong số 10 bệnh nhân ban đầu. Họ nhận thấy có những thay đổi phối hợp ở các tần số khác nhau trong các hoạt động ở vùng não được kích thích. Dự vào các mô hình này, thuật toán có thể dự đoán liệu bệnh nhân có đang hồi phục ổn định sau mỗi tuần hay không, với độ chính xác lên tới 90%.
 
Các nhà nghiên cứu cũng quan sát thấy một số phần của mô hình này phát triển theo hướng ngược lại sau khi sử dụng liệu pháp kích thích so với khi bắt đầu trị liệu. Phát hiện này cung cấp bằng chứng cho thấy sự phục hồi lâu dài là do não thích ứng với sự kích thích – quá trình này được gọi là tính dẻo dai của não – chứ không phải là tác động trực tiếp của biện pháp kích thích.
 
Nhóm nghiên cứu cũng thấy các dấu ấn sinh học tiềm năng khác cần nghiên cứu thêm.
 
Thí dụ, những bất thường trong hình ảnh não được chụp trước khi cấy các điện cực vào có liên quan đến mức độ bệnh của từng bệnh nhân. Điều này có thể cung cấp manh mối về nguyên nhân gây trầm cảm ở một số người, hoặc giúp phát triển các phương pháp chụp quét hình ảnh để xác định ai nên áp dụng phương pháp DBS.
 
Thí dụ khác, các nhà nghiên cứu nhận thấy nét mặt của bệnh nhân thay đổi khi các hoạt động trong não của họ thay đổi trong quá trình điều trị. Mặc dù các bác sĩ thường báo cáo điều này theo kinh nghiệm truyền miệng, nhưng ước lượng những thay đổi này có thể cung cấp một cách để phát triển các dấu hiệu phục hồi khách quan, kết hợp các hành vi với tín hiệu não của bệnh nhân.
 
Bởi vì nghiên cứu mới chỉ dựa trên một số lượng nhỏ bệnh nhân, nên nhóm nghiên cứu sẽ là phải điều tra sâu hơn xem chúng có thể được áp dụng rộng rãi cho các bệnh nhân khác hay không, và phát triển các thiết bị DBS mới hơn.
 
Cải thiện việc ra quyết định cho bệnh trầm cảm
 
Trầm cảm lâm sàng là một chứng bệnh gây ra nhiều khổ sở cho cả bệnh nhân và xã hội. Đây là một trong những chứng bệnh góp phần vào gánh nặng bệnh tật chung của nhiều quốc gia. Mặc dù có nhiều phương pháp điều trị đã được chuẩn thuận, nhưng gần 30% trong số 8.9 triệu người ở Hoa Kỳ dù đang sử dụng thuốc điều trị trầm cảm nhưng vẫn bị các triệu chứng dày vò.
 
Kích thích não bộ là một trong những liệu pháp thay thế đang được nghiên cứu sử dụng cho chứng trầm cảm mà các phương pháp điều trị thông thường không hữu hiệu. Liệu pháp này có thể giúp chữa trị hiệu quả và lâu dài cho một số bệnh nhân.
 
Mặc dù DBS đã được phê duyệt để điều trị các tình trạng khác như bệnh Parkinson, nó vẫn đang được thử nghiệm đối với bệnh trầm cảm chống lại các phương pháp điều trị thông thường. Và dù kết quả rất khả quan, nhưng chúng vẫn cần phải được tiếp tục thử nghiệm trong các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên và quy mô lớn.
 
Tìm ra một dấu ấn sinh học khách quan để đo lường sự phục hồi bệnh trầm cảm có thể giúp cải thiện các quyết định điều trị. Thí dụ, trong nghiên cứu, một bệnh nhân bị tái phát sau vài tháng thuyên giảm. Nếu có sẵn dấu ấn sinh học vào thời điểm đó, nó sẽ giúp cảnh báo việc tái phát trước vài tuần. Công cụ này có thể giúp các bác sĩ lâm sàng ra quyết định can thiệp kịp thời trước khi bệnh tái phát.
 
Nguồn: “Depression recovery can be hard to measure − new research on deep brain stimulation shows how objective biomarkers could help make treatment more precise” của Christopher Rozell và Sankaraleengam Alagapan, được đăng trên trang TheConversation.com.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cách đây không lâu, ngôi sao nhạc pop 29 tuổi Justin Bieber đã phải hủy chuyến lưu diễn quốc tế sau khi một phần khuôn mặt của anh bị liệt do biến chứng của bệnh giời leo (shingles), bệnh lo một loại siêu vi gây ra và được cho là chỉ ảnh hưởng đến người cao niên. Tuy nhiên, thực tế là bất cứ ai cũng có thể mắc bệnh giời leo và có một số bằng chứng cho thấy số trường hợp mắc bệnh ngày càng gia tăng ở người dưới 50 tuổi.
Tập đoàn Nhân sâm Hàn Quốc tại Hoa Kì (KGCUS), nơi sản xuất thương hiệu nhân sâm số một thế giới CheongKwanJang, tự hào giới thiệu thức uống thảo dược có ga HSW kết hợp hồng sâm 6 năm tuổi, tới các khách hàng quan tâm đến sức khỏe tại WaBa Grill, một trong những chuỗi nhà hàng hàng đầu chuyên phục vụ món cơm lành mạnh
Thỉnh thoảng chúng ta mới thấy một thứ thuốc mới làm chấn động không những giới y tế mà còn làm chấn động thị trường kinh tế thế giới. Thí dụ trước đây là thuốc phục vụ trong những nhu cầu căn bản và mạnh mẻ nhất của con người, Viagra, thuốc giúp chữa chứng rối loạn cương cứng (ED) của nam giới, do Pfizer phát triển, đã có tác động kinh tế đáng kể đến ngành dược phẩm kể từ khi được FDA phê duyệt vào năm 1998. Viagra là loại thuốc mang lại lợi nhuận cao cho Pfizer, doanh thu toàn cầu khoảng 1,6 tỷ USD trong năm 2016 mặc dù đã có thuốc generic rẻ tiền hơn nhiều.
Ung thư khởi phát khi các tế bào tích tụ những tổn hại đủ để thay đổi hành vi bình thường của chúng. Khả năng tích tụ tổn hại tăng theo độ tuổi vì các biện pháp bảo vệ trong mã di truyền, nhằm đảm bảo các tế bào hoạt động vì lợi ích tối ưu của cơ thể, sẽ suy yếu theo thời gian. Vậy thì tại sao những đứa trẻ chưa có đủ thời gian để các tế bào tích tụ tổn hại lại có thể mắc bệnh ung thư? Nếu nhìn qua lăng kính tiến hóa, ung thư phát triển từ sự ‘bất hợp tác’ của tế bào, vốn ban đầu các tế bào sẽ cùng kết hợp với nhau và hoạt động như một cơ quan. Ở trẻ em, các tế bào vẫn đang học cách hợp tác. Ung thư ở trẻ em khởi phát khi xuất hiện các tế bào ‘nổi loạn’ không chịu hợp tác và cứ phát triển bất chấp, gây tổn hại cho cơ thể.
Bộ não con người có thể thay đổi – nhưng thường với nỗ lực rất lớn và diễn ra từ từ, chẳng hạn như khi chúng ta học một môn thể thao hoặc ngoại ngữ mới, hoặc hồi phục sau cơn đột quỵ. Học các kỹ năng mới có tương quan với những thay đổi trong não; điều này đã được nghiên cứu khoa học thần kinh với động vật và quét não chức năng ở người chứng minh. Có lẽ, nếu quý vị thành thạo Giải tích 1 (Calculus 1), thì trong não quý vị sẽ có điều gì đó khác một chút. Các tế bào thần kinh vận động trong não mở rộng và co lại tùy thuộc vào tần suất chúng được vận động – một sự phản ánh của tế bào thần kinh về việc “xài hoặc mất” (use it or lose it).
Chẳng có ai vừa ra khỏi bụng mẹ là đã biết trượt ván, lướt sóng hay thậm chí là đứng kiễng chân. Không giống như các loài động vật hữu nhũ khác, con người không có khả năng giữ thăng bằng khi mới sinh – không có em bé sơ sinh nào vừa đẻ ra là đã biết đi hoặc đứng. Trước khi có được những khả năng đó, trẻ sơ sinh sẽ phát triển thị giác, thính giác, cơ, xương và não. Quá trình này mất nhiều tháng và thậm chí là nhiều năm đối với một số hoạt động.
Hội đồng Nobel tại Viện Karolinska đã quyết định trao giải thưởng Nobel về sinh lý học hoặc y học năm 2023 cho hai khoa học gia người Mỹ Katalin Karikó (gốc Hungary) và Drew Weissman hôm nay ngày 2 tháng 10, 2023, vì những khám phá của họ liên quan đến việc biến đổi base của các nucleoside (nucleoside base modifications) cho phép phát triển vắc xin mRNA hiệu quả chống lại COVID-19
Một nhóm các nhà nghiên cứu đã phát triển một phương pháp mới để nghiên cứu cách các gen có thể gây ra bệnh tự kỷ và các bệnh rối loạn về phát triển não bộ (neurodevelopmental disorders) khác: phát triển các cấu trúc nhỏ tương tự như bộ não trong phòng thí nghiệm và điều chỉnh DNA của chúng.
Trung tâm kiểm soát bệnh Hoa Kỳ CDC vừa đưa ra các khuyến nghị về thuốc chủng ngừa Covid cho mùa thu này sau khi thuốc được Cơ quan Quản trị Thực phẩm và Thuốc (FDA) của Hoa Kỳ chuẩn thuận hôm thứ hai, ngày 12 tháng 9, 2023. Sau đại dịch Covid mấy năm vừa qua, kiến thức của quần chúng về các bệnh nhiễm, các thuốc chủng ngừa (vắc xin) đã tăng lên nhiều, cũng như óc phê phán và sự nghi ngờ đối với các biện pháp y tế hay phòng ngừa do chính quyền hay các cơ quan như CDC đề xướng, lắm khi gắn liền với lập trường chính trị của mỗi người, có khi tuỳ theo tiểu bang. Bài sau đây chỉ có tính cách thông tin, dựa trên những nguồn tin tức mà người viết nghĩ là đáng tin cậy. Độc giả cần tham khảo với người săn sóc y tế cho mình để đi tới quyết định có nên dùng vắc xin nào hay không. Sau đây là những điểm chính của các thông báo của CDC cho báo chí, kèm theo chú thích để bàn thêm
Vitamin D là chất dinh dưỡng quan trọng và cần thiết cho sức khỏe. Nó giúp xây dựng và duy trì xương chắc khỏe, đồng thời hỗ trợ chức năng cơ bắp và miễn dịch. Nhưng hầu hết mọi người trên thế giới đều bị thiếu vitamin D, khiến cho nó trở thành loại supplement phổ biến nhất trên thị trường
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.