Hôm nay,  

Câu Chuyện Thầy Lang: Thụ Tinh Trong Ống Nghiệm

19/11/201000:00:00(Xem: 8509)

Câu Chuyện Thầy Lang: Thụ Tinh Trong Ống Nghiệm

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Ngày 5 tháng 10 năm 2010, giải Nobel y học 2010 đã được Hàn Lâm Viện Thụy Điển trao tặng  cho bác sĩ người Anh Robert G. Edwards nhờ khám phá ra phương pháp thụ tinh qua ống nghiệm tiếng Anh gọi là Invitro Fertilisation.
Theo Hàn Lâm Viện Thụy Điển, « kết quả nghiên cứu của bác sĩ Edwards đã khiến cho việc điều trị bệnh vô sinh dễ dàng hơn. Vô sinh là một vấn nạn y khoa ảnh hưởng tới một số lớn nhân loại và đặc biệt là 10% các cặp vợ chồng trên khắp thế giới ».
Vô Sinh được định nghĩa như một bệnh của bộ máy sinh sản ở cả người nam lẫn nữ, sau khi họ đã cố gắng trong đời sống tình dục được một năm mà vẫn không có con, hoặc người nữ không tiếp tục mang thai được cho tới ngày nở nhụy khai hoa.
Đã có thời kỳ người ta quy trách nhiệm về sự vô sinh, không có con nối dõi tông đường của cặp vợ chồng là do lỗi ở người vợ. “Cây khô không lộc, người độc không con”. Thế là bà vợ bèn bị cả nhà chồng giáng cấp, hắt hủi, ruồng bỏ.
Hoặc có quan niệm không con là do số phận, ý muốn của Thượng Đế. Nên đã có việc đi lễ bái, xin con cầu tự. Hoặc tin không có con là do tiền oan nghiệp chướng, ăn ở ác đức từ kiếp trước cũng như bị tà ma ám ảnh nên phải mời thầy cúng về lập đàn trừ oan, giải độc.
Thực ra, hiếm muộn thường có 35% nguyên nhân do người nam, 35% từ người nữ, 20% trách nhiệm cả đôi bên và 10% không giải thích được. Có thống kê lại nói 60% do nữ, 40% do nam.
Từ thập niên 1950, bác sĩ Edwards đã manh nha  ý định nghiên cứu một phương pháp nào đó để gây ra sự kết hợp giữa trứng nữ với tinh trùng ở trong phòng thí nghiệm. Đến năm 1968, ông đã thành công tạo ra một phôi bào nhỏ. Sau đó, với sự hợp tác của bác sĩ sản phụ khoa Patrick Steptoe, họ tiếp tục nghiên cứu đặt phôi bào vào dạ con. Với mọi cố gắng, ngày 25 tháng 7 năm 1978, họ đã thành công sanh ra em bé ống nghiệm đầu tiên trên thế giới Louise Brown. Louise là con của một cặp vợ chồng đã cố gắng có thai trong 9 năm nhưng thất bại vì ống dẫn trứng của bà vợ bị tắc nghẽn. Ngày 10 tháng 11 năm 1977, bà vợ được hai vị bác sĩ giúp có thai qua thụ tinh trong phòng thí nghiệm. Và Louise ra đời. Louise có sức khỏe tốt, vẫn làm việc. Năm 2007 cô có thai theo cách tự nhiên và sanh ra một cháu bé bình thường.
Hiện nay đã có khoảng trên 4 triệu trẻ em trên thế giới sinh ra với phương pháp này thụ tinh trong ống nghiệm. Tại Việt Nam, thụ thai trong ống nghiệm cũng được áp dụng từ năm 1998, riêng bệnh viện phụ khoa Từ Dũ đã sanh khoảng 3000 em.
Thu thai trong ống nghiệm là lấy trứng của người nữ cho thụ tinh với tinh trùng, nuôi trong hộp dinh dưỡng cho tới khi thành phôi bào rồi đặt vào dạ con người nữ. Sau 9 tháng 10 ngày phôi bào phát triển thành con người bình thường.
Thụ thai ống nghiệm khác với sinh sản vô tính (cloning). Trong cloning, người ta lấy nhân của một cái trứng nữ ra, thay vào đó là nhân của một tế bào khác trong cơ thể. Trứng kết hợp này được nuôi trong dung dịch dinh dưỡng để thành phôi bào rồi lớn lên thành một sinh vật. Như trường hợp con cừu Dolly ở bên Anh vào ngày 5 tháng 7 năm 1996..


Phương pháp thụ tinh ống nghiệm tiến hành như sau :
1-Người nữ được cho dùng thuốc để kích thích nhiều trứng rụng và trưởng thành. Bình thường mỗi tháng chỉ có một trứng rụng mà thôi.
2-Trứng được hút ra càng nhiều càng tốt qua một lỗ nhỏ xuyên qua khoang xương chậu với một dụng cụ đặc biệt. Thường thường người nữ được dùng thuốc an thần hoặc thuốc mê để khỏi đau. Nếu không có trứng thì có thể xin trứng từ phụ nữ khác.
3-Lấy tinh trùng, thường là qua sự thủ dâm.
4-Trứng và tinh trùng được đặt trong hộp ống nghiệm chứa dung dịch dinh dưỡng, cho kết hợp với nhau để trở thành phôi bào.
5-Phôi bào được đưa vào dạ con trong vòng 2 hoặc 3 ngày để phát triển. Có thể đưa vào một hoặc nhiều phôi bào. Phôi bào không dùng hết sẽ được giữ đông lạnh để dành.
IVF được dùng trong các trường hợp sau :
-Phụ nữ ngoài tuổi mang thai.
-Tắc nghẹt hoặc tổn thương ống dẫn trứng.
-Bệnh lạc nội mạc tử cung endometrosis
-Hiếm muộn nam giới vì ít tinh trùng hoặc cản trở lưu thông tinh trùng.
-Hiếm muộn không rõ nguyên nhân.
Tỷ lệ thành công của phương pháp tùy thuộc nhiều yếu tố như thời gian đã bị vô sinh, tuổi tác người phụ nữ, cấu trúc niêm mạc dạ con, trứng tươi hay trứng giữ đông lạnh. Tại Hoa Kỳ tỷ lệ sinh thành công là 35% cho phụ nữ dưới 35 tuổi mà trên 40 tuổi tỷ lệ giảm xuống cón từ 6-10%. Phụ nữ tuổi cao thường có ít trứng, kém đáp ứng với phương pháp kích thích noãn sào sản xuất trứng và vì tỷ lệ có thai cũng giảm.
Thụ thai ống nghiệm có thể dùng trứng và tinh trùng của cặp vợ chồng hoặc do người khác cho.
Cũng như các phẫu thuật khác, phương pháp thụ thai ống nghiệm cũng có một số biến chứng/ hậu quả xấu. Trước hết là tâm trạng căng thẳng trong khi được thực hiện phương pháp, lo nghĩ không biết kết quả ra sao, lại còn tốn kém. Nhiều khi phải làm đi làm lại nhiều lần. Rồi đến các rối loạn thể chất như đau bụng, nôn ói, tiểu tiện ít, chảy máu, nhiễm trùng…nhưng bác sĩ đều đối phó được.
Sau khi nhận phôi bào, người nữ cẩn nghỉ một ngày rồi trở lại công việc bình thường nhưng tránh việc nặng. 12-14 ngày sau, trở lại bác sĩ để thử coi đã có thai chưa.
Trong 8-10 tuần lễ sau khi nhận phôi bào, người nữ cần uống hoặc chích hormon progesteron mỗi ngày để niêm mạc dạ con dày lên, mang nhiều máu nuôi phôi bào.
Nhớ thông báo cho bác sĩ hay ngay nếu nóng sốt, xuất huyết cửa mình, đau bụng, đi tiểu ra máu.
Việc làm của hai bác sĩ Edwards và Steptoe cũng gặp nhiều khó khăn về trợ giúp tài chánh cũng như chỉ trích.
Giới chức y tế của Tòa Thánh Vatican nói rằng «không có Edwards thì không có thị trường bán cả triệu trứng nữ, không những freezers chứa đầy phôi bào trên thế giới mà một số được đưa vào tử cung còn đa số bị hủy hoại, vứt bỏ».
Lại có nhận xét rằng việc làm của bác sĩ Edwards đã trao cho con người cái sức mạnh làm điều mà trước đây vẫn được coi là lãnh vực của Thượng Đế : tạo ra và điều khiển đời sống con người.
Một số nhà chuyên môn e ngại thụ tinh ống nghiệm sẽ tạo ra con người có thể có vài khuyết tật hoặc sanh ra nhiều con trai hơn con gái.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Vừa mới mua một thùng raspberry hôm qua, mà hôm nay chúng bắt đầu trông hơi…mốc lên rồi. Mà mang bỏ hết thì tiếc đứt ruột – hay là chỉ lấy những trái bị mốc bỏ ra là được? Không ít người sẽ quyết định như vậy. Tưởng chừng như vô hại, nhưng nấm mốc trên thực phẩm có thể gây ra nhiều vấn đề, từ chứng khó tiêu cho đến những tình huống nghiêm trọng nhất như tổn thương thận hoặc thậm chí là ung thư.
Các cơ quan y tế Trung Quốc tuần qua cho biết họ chưa phát hiện bất kỳ mầm bệnh bất thường hoặc chủng vi-rút mới nào sau khi Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) yêu cầu cung cấp thông tin về các đợt bùng phát bịnh hô hấp. WHO đã yêu cầu Trung Quốc cung cấp thêm thông tin chi tiết sau khi các tổ chức như Program for Monitoring Emerging Diseases (ProMED) báo cáo về các trường hợp viêm phổi chưa được chẩn đoán ở trẻ em ở miền bắc Trung Quốc.
Nghệ (turmeric) là một loài thực vật có hoa thuộc họ gừng. Từ lâu, nghệ đã được đánh giá cao trong nền y khoa cổ Ayurvedic ở Ấn Độ nhờ đặc tính chống viêm. Với ẩm thực Châu Á, nghệ cũng được ưa thích bởi hương vị và màu sắc của nó. Trong tiếng Hindi, nghệ được gọi là Haldi, có nguồn gốc từ tiếng Phạn có nghĩa là “màu vàng.” Nhưng đối với hàng triệu người Nam Á thường xuyên sử dụng nghệ, màu vàng rực rỡ của nghệ có thể khiến họ mất mạng.
Thời gian Mở Ghi Danh Medicare (Open Enrollment) đang diễn ra. Chúng tôi đã chọn một số câu hỏi về chủ đề này và muốn chia sẻ thông tin trong chuyên mục của tháng này. Chúng tôi đã thêm một câu hỏi để giải quyết rõ ràng hơn những lĩnh vực mà nhiều người còn nhầm lẫn về vắc xin ngừa COVID-19. Nếu quý vị có thêm câu hỏi về Medicare, Medicaid, thị trường bảo hiểm Y tế theo đạo luật chăm sóc giá cả phải chăng, phúc lợi hưu trí an sinh xã hội, thu nhập an sinh bổ sung hoặc tiêm chủng ngừa COVID/cúm, quý vị có thể liên hệ với chúng tôi ngay hôm nay bằng 3 cách:
Mua thuốc bậy bạ không nguồn gốc là một trò xui rủi. Từ Xanax đến cocaine, thuốc hoặc thuốc giả được mua ở những nơi không phải cơ sở y tế có thể chứa liều lượng fentanyl nguy hiểm cho tính mạng. Các bác sĩ đã chứng kiến sự gia tăng sử dụng fentanyl không cố ý từ những người mua các loại thuốc theo toa thuộc nhóm opioid và các loại thuốc khác có chứa hoặc pha, trộn fentanyl. Người ta nhận thấy Fentanyl đã được đưa vào nguồn cung cấp thuốc heroin ở Massachusetts. Vào năm 2016, Giáo sư Kavita Babu và các đồng nghiệp phát hiện ra rằng những bệnh nhân đến khoa cấp cứu với báo cáo sử dụng quá liều heroin thường có fentanyl trong kết quả xét nghiệm mẫu thuốc của họ.
Hàng năm, trên khắp thế giới sẽ có hàng triệu người quyết tâm không động tới các loại đồ uống có cồn trong một tháng – truyền thống này bắt đầu từ Tháng Giêng Khô Ráo (Dry January) và sau này mở rộng thành nhiều nỗ lực tương tự, chẳng hạn như Tháng Mười Tỉnh Táo (Sober October). Cho dù đó là cả một chiến dịch đông đảo người tham gia, hay chỉ đơn giản là nỗ lực của một cá nhân để bớt ‘say xỉn’ lại, số lượng người tham gia ‘tháng kiêng rượu’ có vẻ như ngày càng nhiều.
Thường thì ai cũng sẽ nghĩ rằng tế bào sống tốt hơn tế bào chết. Tuy nhiên, điều này không phải lúc nào cũng đúng: các tế bào thường hy sinh bản thân để giữ cho chúng ta khỏe mạnh. Chúng là những ‘anh hùng thầm lặng’ chẳng màng sinh-tử để bảo vệ chúng ta. Mặc dù cái chết có vẻ thụ động – là một kết thúc đáng tiếc xảy ra theo kiểu “muốn tránh cũng không được” – nhưng cái chết của các tế bào thường có chủ đích và mang tính chiến lược. Tại sao tế bào chết và chết như thế nào là chuyện khá phức tạp và có thể ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe tổng thể của chúng ta.
Một người đàn ông 29 tuổi mắc HIV/AIDS giai đoạn cuối, đã qua đời 18 ngày sau khi được chẩn đoán mắc bệnh đậu khỉ. Trường hợp này nhấn mạnh tính dễ bị tổn thương của hệ thống miễn dịch bị suy giảm trước mối đe dọa mới nổi này, nhắc nhở về nguy cơ gia tăng đậu khỉ đối với một số nhóm dân cư. Riêng tại TPHCM, từ đầu năm đến nay, 20 ca mắc bệnh đậu khỉ được ghi nhận, trong đó có 18 bệnh nhân dương tính với HIV.
Trong những tuần gần đây, tin tức về việc vận động viên thể dục dụng cụ Mary Lou Retton phải vào bệnh viện vì một loại viêm phổi (pneumonia) hiếm gặp đã khiến nhiều người quan tâm và tò mò về căn bệnh này.
Vào mùa cảm cúm, nhiều người sẽ ‘khư khư’ một vũ khí phòng thủ quen thuộc: Vitamin C – dạng viên, dạng bột và tất cả các dạng phổ biến khác. Chất dinh dưỡng này là một trong nhiều loại supplements, từ vitamin A đến kẽm, thường được sử dụng bởi những người muốn tăng cường hệ thống miễn dịch và sức khỏe tổng thể. Nhưng vitamin C cũng có thể là một trong những chất dinh dưỡng bị lạm dụng nhiều nhất.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.