Hôm nay,  

Câu Chuyện Thầy Lang: Thụ Tinh Trong Ống Nghiệm

19/11/201000:00:00(Xem: 8477)

Câu Chuyện Thầy Lang: Thụ Tinh Trong Ống Nghiệm

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Ngày 5 tháng 10 năm 2010, giải Nobel y học 2010 đã được Hàn Lâm Viện Thụy Điển trao tặng  cho bác sĩ người Anh Robert G. Edwards nhờ khám phá ra phương pháp thụ tinh qua ống nghiệm tiếng Anh gọi là Invitro Fertilisation.
Theo Hàn Lâm Viện Thụy Điển, « kết quả nghiên cứu của bác sĩ Edwards đã khiến cho việc điều trị bệnh vô sinh dễ dàng hơn. Vô sinh là một vấn nạn y khoa ảnh hưởng tới một số lớn nhân loại và đặc biệt là 10% các cặp vợ chồng trên khắp thế giới ».
Vô Sinh được định nghĩa như một bệnh của bộ máy sinh sản ở cả người nam lẫn nữ, sau khi họ đã cố gắng trong đời sống tình dục được một năm mà vẫn không có con, hoặc người nữ không tiếp tục mang thai được cho tới ngày nở nhụy khai hoa.
Đã có thời kỳ người ta quy trách nhiệm về sự vô sinh, không có con nối dõi tông đường của cặp vợ chồng là do lỗi ở người vợ. “Cây khô không lộc, người độc không con”. Thế là bà vợ bèn bị cả nhà chồng giáng cấp, hắt hủi, ruồng bỏ.
Hoặc có quan niệm không con là do số phận, ý muốn của Thượng Đế. Nên đã có việc đi lễ bái, xin con cầu tự. Hoặc tin không có con là do tiền oan nghiệp chướng, ăn ở ác đức từ kiếp trước cũng như bị tà ma ám ảnh nên phải mời thầy cúng về lập đàn trừ oan, giải độc.
Thực ra, hiếm muộn thường có 35% nguyên nhân do người nam, 35% từ người nữ, 20% trách nhiệm cả đôi bên và 10% không giải thích được. Có thống kê lại nói 60% do nữ, 40% do nam.
Từ thập niên 1950, bác sĩ Edwards đã manh nha  ý định nghiên cứu một phương pháp nào đó để gây ra sự kết hợp giữa trứng nữ với tinh trùng ở trong phòng thí nghiệm. Đến năm 1968, ông đã thành công tạo ra một phôi bào nhỏ. Sau đó, với sự hợp tác của bác sĩ sản phụ khoa Patrick Steptoe, họ tiếp tục nghiên cứu đặt phôi bào vào dạ con. Với mọi cố gắng, ngày 25 tháng 7 năm 1978, họ đã thành công sanh ra em bé ống nghiệm đầu tiên trên thế giới Louise Brown. Louise là con của một cặp vợ chồng đã cố gắng có thai trong 9 năm nhưng thất bại vì ống dẫn trứng của bà vợ bị tắc nghẽn. Ngày 10 tháng 11 năm 1977, bà vợ được hai vị bác sĩ giúp có thai qua thụ tinh trong phòng thí nghiệm. Và Louise ra đời. Louise có sức khỏe tốt, vẫn làm việc. Năm 2007 cô có thai theo cách tự nhiên và sanh ra một cháu bé bình thường.
Hiện nay đã có khoảng trên 4 triệu trẻ em trên thế giới sinh ra với phương pháp này thụ tinh trong ống nghiệm. Tại Việt Nam, thụ thai trong ống nghiệm cũng được áp dụng từ năm 1998, riêng bệnh viện phụ khoa Từ Dũ đã sanh khoảng 3000 em.
Thu thai trong ống nghiệm là lấy trứng của người nữ cho thụ tinh với tinh trùng, nuôi trong hộp dinh dưỡng cho tới khi thành phôi bào rồi đặt vào dạ con người nữ. Sau 9 tháng 10 ngày phôi bào phát triển thành con người bình thường.
Thụ thai ống nghiệm khác với sinh sản vô tính (cloning). Trong cloning, người ta lấy nhân của một cái trứng nữ ra, thay vào đó là nhân của một tế bào khác trong cơ thể. Trứng kết hợp này được nuôi trong dung dịch dinh dưỡng để thành phôi bào rồi lớn lên thành một sinh vật. Như trường hợp con cừu Dolly ở bên Anh vào ngày 5 tháng 7 năm 1996..


Phương pháp thụ tinh ống nghiệm tiến hành như sau :
1-Người nữ được cho dùng thuốc để kích thích nhiều trứng rụng và trưởng thành. Bình thường mỗi tháng chỉ có một trứng rụng mà thôi.
2-Trứng được hút ra càng nhiều càng tốt qua một lỗ nhỏ xuyên qua khoang xương chậu với một dụng cụ đặc biệt. Thường thường người nữ được dùng thuốc an thần hoặc thuốc mê để khỏi đau. Nếu không có trứng thì có thể xin trứng từ phụ nữ khác.
3-Lấy tinh trùng, thường là qua sự thủ dâm.
4-Trứng và tinh trùng được đặt trong hộp ống nghiệm chứa dung dịch dinh dưỡng, cho kết hợp với nhau để trở thành phôi bào.
5-Phôi bào được đưa vào dạ con trong vòng 2 hoặc 3 ngày để phát triển. Có thể đưa vào một hoặc nhiều phôi bào. Phôi bào không dùng hết sẽ được giữ đông lạnh để dành.
IVF được dùng trong các trường hợp sau :
-Phụ nữ ngoài tuổi mang thai.
-Tắc nghẹt hoặc tổn thương ống dẫn trứng.
-Bệnh lạc nội mạc tử cung endometrosis
-Hiếm muộn nam giới vì ít tinh trùng hoặc cản trở lưu thông tinh trùng.
-Hiếm muộn không rõ nguyên nhân.
Tỷ lệ thành công của phương pháp tùy thuộc nhiều yếu tố như thời gian đã bị vô sinh, tuổi tác người phụ nữ, cấu trúc niêm mạc dạ con, trứng tươi hay trứng giữ đông lạnh. Tại Hoa Kỳ tỷ lệ sinh thành công là 35% cho phụ nữ dưới 35 tuổi mà trên 40 tuổi tỷ lệ giảm xuống cón từ 6-10%. Phụ nữ tuổi cao thường có ít trứng, kém đáp ứng với phương pháp kích thích noãn sào sản xuất trứng và vì tỷ lệ có thai cũng giảm.
Thụ thai ống nghiệm có thể dùng trứng và tinh trùng của cặp vợ chồng hoặc do người khác cho.
Cũng như các phẫu thuật khác, phương pháp thụ thai ống nghiệm cũng có một số biến chứng/ hậu quả xấu. Trước hết là tâm trạng căng thẳng trong khi được thực hiện phương pháp, lo nghĩ không biết kết quả ra sao, lại còn tốn kém. Nhiều khi phải làm đi làm lại nhiều lần. Rồi đến các rối loạn thể chất như đau bụng, nôn ói, tiểu tiện ít, chảy máu, nhiễm trùng…nhưng bác sĩ đều đối phó được.
Sau khi nhận phôi bào, người nữ cẩn nghỉ một ngày rồi trở lại công việc bình thường nhưng tránh việc nặng. 12-14 ngày sau, trở lại bác sĩ để thử coi đã có thai chưa.
Trong 8-10 tuần lễ sau khi nhận phôi bào, người nữ cần uống hoặc chích hormon progesteron mỗi ngày để niêm mạc dạ con dày lên, mang nhiều máu nuôi phôi bào.
Nhớ thông báo cho bác sĩ hay ngay nếu nóng sốt, xuất huyết cửa mình, đau bụng, đi tiểu ra máu.
Việc làm của hai bác sĩ Edwards và Steptoe cũng gặp nhiều khó khăn về trợ giúp tài chánh cũng như chỉ trích.
Giới chức y tế của Tòa Thánh Vatican nói rằng «không có Edwards thì không có thị trường bán cả triệu trứng nữ, không những freezers chứa đầy phôi bào trên thế giới mà một số được đưa vào tử cung còn đa số bị hủy hoại, vứt bỏ».
Lại có nhận xét rằng việc làm của bác sĩ Edwards đã trao cho con người cái sức mạnh làm điều mà trước đây vẫn được coi là lãnh vực của Thượng Đế : tạo ra và điều khiển đời sống con người.
Một số nhà chuyên môn e ngại thụ tinh ống nghiệm sẽ tạo ra con người có thể có vài khuyết tật hoặc sanh ra nhiều con trai hơn con gái.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi nói đến việc giữ cho xương khỏe mạnh, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến vitamin D, chất dinh dưỡng giúp cơ thể hấp thụ lượng canxi cần thiết để giúp cho bộ xương chắc khỏe. Nhưng dù rằng vitamin D đúng là một chất dinh dưỡng thiết yếu, trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy tầm quan trọng của các loại vitamin khác trong việc chống gãy xương (fractures) và bệnh loãng xương, hay bệnh xương xốp (osteoporosis).
Không thể nhìn thấy bằng mắt thường, không có mùi và cũng chẳng có vị, những lượng nhỏ chì (lead) hiện diện trong các vật dụng mà chúng ta sử dụng hàng ngày, trong nhà chúng ta ở, và cả trong nước chúng ta uống. Thậm chí, chì còn xuất hiện trong các bình nước tái sử dụng, như việc phát hiện ra chì trong đáy ly Stanley. Vụ việc đã làm dấy lên nhiều tranh cãi và khơi dậy sự chú ý của người tiêu dùng đối với một vấn đề đã tồn tại từ rất lâu.
Hôm cuối tháng Hai vừa qua, Tòa Tối cao của bang Alabama phán quyết rằng: “Phôi đông lạnh là trẻ em.” Tuyên án này tuy chỉ có uy lực theo Hiến pháp và luật pháp ở Alabama, tuy nhiên, sự bắt đầu này tạo ra tiền lệ cho tất cả những vụ án vế sau của tất cả các bang khác và kề cả hiến pháp Hoa Kỳ, ảnh hưởng đến thời kỳ cho phép phá thai. Nhiều người và nhiều cơ quan sẽ phải chịu trách nhiệm, sẽ bị trừng phạt nếu làm hỏng phôi thai, như một tội giết trẻ em. Phán quyết của Alabama, được công bố hôm thứ Sáu, bắt nguồn từ hai vụ kiện của ba nhóm cha mẹ đã trải qua thủ tục thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) để sinh con và sau đó chọn đông lạnh số phôi còn lại. Giáo sư Nicole Huberfeld của Trường Luật Đại học Boston cho biết, đó cũng là một quyết định có thể gây ảnh hưởng lan rộng đến việc sử dụng các phương pháp điều trị sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Thử tưởng tượng rằng chỉ cần uống một viên thuốc là quý vị sẽ tràn trề năng lượng, da dẻ mịn màng, và tim mạch khỏe re? Các viễn cảnh hấp dẫn này vẫy gọi mãnh liệt mỗi khi chúng ta dạo quanh qua các quầy hàng bán các loại thực dược phẩm bổ dưỡng trong hiệu thuốc, từ các loại viên uống dầu cá (fish oil), bột collagen (collagen powder), kẹo bổ sung ma-giê và muôn hình vạn trạng các loại vitamin.
Hơn một thập niên từ sau cái chết bất ngờ của mẹ, Sehrish Sayani mắc chứng rối loạn tâm thần hậu chấn (PTSD). Suốt những năm đó, những cơn hoảng loạn dữ dội nhất đã giảm dần, nhưng các triệu chứng như nghi ngại thái quá (hypervigilance), trở nên đặc biệt nhạy cảm với một số yếu tố và những giấc ngủ chập chờn đã trở nên quen thuộc trong cuộc sống của cô.
Trong cuốn tiểu thuyết Chuyện Hai Thành Phố (A Tale of Two Cities) của Charles Dickens, được xuất bản năm 1859 và lấy bối cảnh thời Cách Mạng Pháp, có đoạn viết: “Đó là thời đại tốt đẹp nhất, cũng là thời đại tồi tệ nhất, đó là thời đại của sự khôn ngoan, cũng là thời đại của sự ngu xuẩn.” Đại dịch COVID-19 cũng là một thời đại như thế. Một mặt, khoa học đã cứu sống được nhiều người. Chưa đầy một năm sau khi phát hiện virus, Hoa Kỳ đã tạo ra và thử nghiệm vắc xin, rồi cho sản xuất, phân phối và triển khai tiêm chủng hàng loạt miễn phí cho người dân. Ước tính vắc xin COVID đã cứu được ít nhất 3.2 triệu người chỉ riêng ở Hoa Kỳ. Những thành tựu này tạo ra hy vọng về việc chúng ta có thể nhanh chóng ứng phó với đại dịch trong tương lai.
Hơn một thập niên trước, Shria Kumar, bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa và là chuyên gia nghiên cứu tại Đại học Miami, bắt đầu chú ý đến một dấu hiệu đáng lo ngại. Có một số bệnh nhân ung thư dạ dày đến gặp bà ở độ tuổi rất trẻ, và rất nhiều người là phụ nữ. Khuynh hướng này vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay. Các khoa học gia đang nỗ lực tìm hiểu tại sao điều này lại xảy ra. Vào mùa xuân năm ngoái, họ đã xác nhận rằng hiện tượng này đang diễn ra ở Hoa Kỳ. Sau khi kiểm tra hệ thống các cơ sở dữ liệu chứa các thông tin chi tiết về các trường hợp ung thư ở nhiều tiểu bang trên toàn quốc, các nhà nghiên cứu nhận thấy ung thư dạ dày đang gia tăng nhanh hơn ở phụ nữ trẻ.
Wegovy, Ozempic và Mounjaro là các loại thuốc giảm cân và điều trị tiểu đường đã gây được tiếng vang lớn trong lĩnh vực tin tức y tế. Chúng nhắm vào các con đường điều tiết liên quan đến cả bệnh béo phì và tiểu đường, và được nhiều người coi là bước đột phá trong việc kiểm soát cân nặng, đường và huyết áp. Nhưng liệu những loại thuốc này có giải quyết được nguyên nhân gốc rễ của hội chứng chuyển hóa (metabolic disease) không? Điều gì đã thúc đẩy sự phát triển của chúng từ ban đầu?
Gần đây quý vị vừa bị cảm lạnh, cúm, RSV hoặc COVID, bệnh đã qua nhưng mãi vẫn không thể hết ho? Rất nhiều người bị giống như vậy. Triệu chứng này có thể tồn tại trong nhiều tuần sau khi cơ thể chúng ta đã loại bỏ vi-rút. Michael Shiloh, một bác sĩ chuyên nghiên cứu bệnh truyền nhiễm tại Trung tâm Y tế UT Southwestern cho biết những bệnh nhân bị ho thường kể là họ đã bị bịnh từ 8 tuần trước khi đến gặp ông. Ông nói: “Chúng tôi thực sự không thể phát hiện thấy vi rút gì ở những người này nữa nhưng họ vẫn bị ho.”
Bằng cách bắt chước cơ chế bảo vệ của cơ thể chống lại nhiễm trùng do vi khuẩn, một nhóm nghiên cứu ở Lund, Thụy điển hy vọng có thể ngăn chặn tình trạng viêm phát triển thành nhiễm trùng máu, theo đài truyền hình SVT, Thụy điển. Nhiễm trùng máu là tình trạng nhiễm trùng có thể đe dọa tính mạng. Thông thường nguyên nhân là do viêm phổi, nhiễm trùng đường tiểu hoặc nhiễm trùng vết thương. Nghiên cứu từ Lund cho thấy hiện nhiễm trùng huyết phổ biến hơn so với trước đây.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.