Hôm nay,  

Hội Chứng Trống Ổ

15/03/200800:00:00(Xem: 8362)

Khi con rời nhà, ba mẹ vào “hội chứng trống ổ.”

Keywords: Syndrome de nid vide, Empty nest syndrome

Phần đông trong chúng ta, thuộc thế hệ baby boomer nay đã bước vào ngưỡng cửa của lớp tuổi 60 rồi. Đây cũng là giai đoạn mà con cái chúng ta đã học hành xong xuôi, có vợ có chồng và bắt đầu tách rời khỏi tổ ấm gia đình để đi xây dựng cuộc đời sống riêng của chúng.

Tất cả các bậc cha mẹ Việt Nam sống ở xứ người đều đã ý thức được rằng một ngày nào đó trong tương lai, mấy đứa con của mình trước sau gì chúng cũng sẽ…đi ra ở riêng hết.  Biết vậy, nhưng đến lúc con cái mình gom góp đồ đạc và xách valise ra khỏi nhà, cha mẹ nào mà không khỏi chạnh lòng buồn man mác và cảm thấy nhà cửa sao trống vắng lạ thường.

Cuộc sống của họ bắt đầu thay đổi hoàn toàn… Sự thay đổi đột ngột này đã tạo nơi họ một cái shock khá mãnh liệt nhất là ở phía người mẹ.

Khoa học gọi đây là hội chứng trống ổ.

Tại sao gọi là hội chứng trống ổ"

Đây là trạng thái tâm lý mà cha mẹ cảm nhận khi con cái mình dọn ra khỏi gia đình để đi ở riêng vì bất cứ một lý do nào. Đi học xa, đi làm xa, có bồ bịch, lập gia đình hay chỉ vì muốn ở riêng để được độc lập tự do, v.v…

Ảnh hưởng của hiện tượng trống ổ thường gây tác động rất mạnh ở phía người mẹ.

Ngoài ra, giai đoạn nầy lại trùng vào thời gian mãn kinh của người mẹ với những biến đổi tâm sinh lý bất thường khiến người mẹ càng dễ bị rơi vào trạng thái suy nhược tinh thần.

Trong tâm trí của phần lớn cha mẹ, con cái mình dù nay đã hơn 25-27 tuổi rồi nhưng nó cũng vẫn còn là…một đứa bé đối với mình.

Nỗi khổ tâm lớn nhất của cha mẹ đến từ ý tưởng vĩnh viễn mất mát đứa con mà không có gì có thể hàn gắn hay thay thế lại được.

Các nhà tâm lý học cho rằng hội chứng trống ổ mà cha mẹ đang gặp phải, bắt nguồn từ cảm giác mất bổn phận làm cha làm mẹ (parenting) mà ra, chớ thật ra không phải là sự kiện mất đứa con.

Cuộc sống vẫn tiếp tục

Sự thay đổi là một hiện tượng không thể nào tránh khỏi được hết.

Chúng ta có hai sự lựa chọn, hoặc là chống lại bất kỳ một sự thay đổi nào và sống với tâm trạng buồn bực níu kéo lại quá khứ, hoặc là chúng ta phải chấp nhận sự đổi thay và cố gắng tìm cách thích ứng với hoàn cảnh mới của hiện tại.

Sự ra đi của mấy đứa con đã làm thay đổi hoàn toàn khung cảnh, cách sinh hoạt và thói quen của gia đình từ hơn hai mươi năm qua.

Ảnh hưởng của hội chứng trống ổ có thể rất khác nhau tùy theo hoàn cảnh của mỗi gia đình. Không có ai giống ai hết!

Trước kia, trọng tâm chính của sinh hoạt trong gia đình là con cái.

Nay, chúng đã đi khỏi rồi thì gia đình không còn cái trọng tâm nữa. Sự buồn chán tạo điều kiện và cơ hội để ông ngó bà hoặc bà ngó ông và tìm những điều không vừa ý, tánh hư tật xấu của nhau mà hành tỏi dằn vặt lẫn nhau. Vì trong thời gian con cái còn ở chung thì ít khi thấy hiện tượng này xảy ra, vì bị che lấp để khỏi làm phiền hà đến con cái.

Đây là điểm tiêu cực cần nên tránh.  

Ngược lại phần đông cha mẹ sau một thời gian khi tâm thần đã bớt giao động, họ trở nên thực tế hơn.

Giai đoạn trống ổ là dịp để cha mẹ ngồi lại với nhau bên chén trà và hoạch định chương trình và thời gian để tận hưởng tình vợ chồng mà hình như từ lâu đã bị gát qua một bên để lo cho con cho cái.

Một thời gian sau khi đã bắt đầu quen sống với tâm trạng trống ổ, chúng ta nên tái tổ chức lại mối quan hệ với con cái trong điều kiện mới khi chúng đã thật sự trở nên những người trưởng thành rồi.

Lợi dụng thời gian trống ổ:

*- Mạnh dạn chấp nhận hoàn cảnh trống ổ, chớ nên ngồi đó mà rầu rĩ, mà than sao mình vô phước quá vậy.

*- Liên lạc thường xuyên và định kỳ bằng email hoặc bằng phone với các con. Nên lập một lịch trình gọi phone cho hợp lý và không để con cái nghĩ là cha mẹ muốn làm áp lực hoặc muốn bắt buộc con cái phải thường xuyên gọi thăm mình.

*- Tổ chức lại cuộc sống hằng ngày theo thứ tự ưu tiên và nên tôn trọng sở thích của nhau.

*- Dùng thời gian rảnh rỗi để vun đắp lại tình vợ chồng với nhau, tránh cảnh ông nói ông nghe bà nói bà nghe, rất dễ dẫn dến tình trạng tuy hai người ở cùng chung một nhà nhưng vẫn cảm thấy cô đơn, Tây gọi là solitude à deux rất có hại cho tuổi già.

*- Nếu hội chứng trống ổ kéo dài quá lâu với những hậu quả có hại về sức khỏe như trầm cảm hay chán đời, thì cha hoặc mẹ cần phải đi tham vấn những nhà chuyên môn.

*- Nên khai thác khía cạnh tích cực có lợi của tình trạng trống ổ, đó là sự kiện cha mẹ được nhiều tự do hơn thuở xưa lúc con cái còn ở chung.

Kết luận

Thời gian trống ổ là một giai đoạn trong cuộc sống của phần đông các bậc làm cha làm mẹ ở xứ người.

Phải chăng trong tình thương con thương cái có ẩn náu tình thương vị kỷ cho chính mình"

Mình lo lúc già rồi ở với ai đây, ai lo cho mình mỗi khi đau yếu bệnh hoạn. Mình sợ sẽ sống trong cảnh đơn chiếc cô độc, sợ không có người giúp đỡ, sợ những việc mình chưa biết đến như…sợ bệnh, sợ chết, v.v…

Thời gian trống ổ chưa phải là chấm dứt bổn phận của cha mẹ với con cái!

Mình vẫn còn là cha mẹ của chúng nó nhưng khác biệt là mình phải thay đổi cách đối xử, xem chúng là những thành viên đã trưởng thành và phải biết tôn trọng quyền tự do quyết định của chúng.

 Khi con cái cần đến mình thì mình vẫn sẵn sàng vì lúc nào mình cũng vẫn còn là cha là mẹ của chúng./.

Tham khảo:

- Chritine Webber. Empty nest syndrome. Netdoctor.co.uk

http://www.netdoctor.co.uk/womenshealth/features/ens.htm

- Kelley Reese. Filling the nest. Univ of Texas

  http://unt.edu/northtexan/archives/f00/nest.htm

 Montreal, March 14, 2008

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Người ta thường nói rằng tất cả chúng ta rồi sẽ trở nên mất trí nhớ - trừ khi chết vì ung thư hoặc bệnh tim mạch. Tất nhiên, có những người chết vì các bệnh khác, tai nạn hoặc tự tử. Nhưng chính chứng mất trí nhớ, ung thư và bệnh tim mạch lại chiếm ưu thế trong danh sách về nguyên nhân tử vong. Tuy nhiên, việc điều trị bệnh tim mạch đã tiến bộ và tỷ lệ sống sót hiện nay cao hơn nhiều. Ung thư đã từ một bản án tử hình trở thành một căn bệnh có thể điều trị được - mặc dù vẫn có những biến thể mà tỷ lệ tử vong gần một trăm phần trăm.
Một nhóm nghiên cứu tại Đại học Lund, Thụy điển đã tìm ra một phương pháp để có thể phát hiện sớm các bệnh nghiêm trọng trong não, chẳng hạn như bệnh Parkinson, bằng cách thử dịch tủy sống sau lưng. Và họ cho biết rằng dấu hiệu ban đầu của bệnh là giảm khứu giác, tin từ Đài truyền hình Thụy điển. Tại Phòng khám Trí nhớ ở thành phố Malmö, Thụy điển, các bác sĩ lấy dịch tủy sống từ những người tình nguyện tham gia nghiên cứu bằng một cây kim vào giữa hai đốt ở cột sống, qua thử nghiệm đó các nhà nghiên cứu biết người đó có khả năng mang chứng bịnh thể Lewy* không? Các chứng bịnh thể Lewy là thuật ngữ chung cho bệnh Parkinson và chứng mất trí nhớ thể Lewy, hay còn gọi là sa sút trí tuệ Lewy.
Theo tờ Smithsonianmag, trong một cuộc phẫu thuật thử nghiệm đột phá, các khoa học gia đã điều trị cho bốn bệnh nhân bị thương nặng ở một mắt bằng cách cấy ghép tế bào gốc từ mắt còn lại. Ula Jurkunas, bác sĩ nhãn khoa tại Massachusetts Eye and Ear và là tác giả đầu tiên của nghiên cứu mới, cho biết: “Báo cáo từng trường hợp cụ thể về bốn bệnh nhân cho thấy một số thông số đã có sự cải thiện, đồng thời cơn đau cũng như các triệu chứng khó chịu đều có giảm bớt.”
Các bác sĩ tại NYU Langone Health trong tuần qua cho biết ca ghép thận heo (đã biến đổi gen) cho một người đàn ông (đã chết não) thành công và thận vẫn tiếp tục hoạt động sau 32 ngày, tờ Washington Post đưa tin. Đây là một bước tiến lớn tới khả năng cấy ghép dị chủng. Theo báo cáo, trong vài phút đầu tiên sau khi được cấy ghép, trái thận không bị cơ thể người nhận đào thải – điều này thường là một vấn đề lớn trong cấy ghép dị chủng (sử dụng cơ quan từ loài khác để cấy ghép). Trái thận đã bắt đầu sản xuất nước tiểu và đảm nhận các chức năng của thận người như đào thải các chất độc.
Nếu thuở nhỏ quý vị từng bị rầy la vì vụ đọc sách, truyện trong bóng tối hoặc nếu có xài mắt kính chặn ánh sáng xanh khi làm việc trên máy tính, thì có thể quý vị chưa hiểu đúng về sức khỏe của mắt. Theo Cơ Quan Kiểm Soát và Phòng Bịnh (CDC), ở Hoa Kỳ cứ 10 người trưởng thành thì có khoảng 4 người có nguy cơ cao bị suy giảm thị lực. Bác sĩ Joshua Ehrlich, giảng sư về nhãn khoa và khoa học thị giác tại Trường Michigan cho biết, có nhiều bịnh về mắt có thể điều trị hoặc phòng ngừa được. Và sau đây là một số niềm tin phổ biến của mọi người về thị lực và những nhận xét của các chuyên gia.
Gần đây các tin thời sự nói nhiều về vấn đề sinh sản. Những nước Á châu đang phát triển kinh tế tột bực như Nhật, Đài Loan và Đại Hàn đều gặp phải vấn đề mức sinh sản quá thấp. Phụ nữ các xứ này học càng ngày càng lâu, lập gia đình chậm hoặc từ chối lập gia đình, có con ít hoặc chọn lựa không sinh con cái để tiếp tục sự nghiệp cá nhân, nếp sống tự do không vướng bận con cái, hoặc lo ngại không đủ tiền của để giáo dục nuôi dưỡng một đứa trẻ.
Một nhóm các nhà nghiên cứu vây quanh Keith Thomas, 45 tuổi, và nhìn chằm chằm vào bàn tay phải của ông. “Mở ra nào, mở ra nào, mở ra nào,” họ thúc giục, và reo hò khi những ngón tay của Thomas xòe ra và cuộn lại theo các hình ảnh trên màn hình máy tính. Vào tháng 7 năm 2020, bị tai nạn trong một chuyến đi lặn, Thomas bị liệt từ ngực trở xuống. Nhưng giờ đây, ông đã có thể cử động tay trở lại sau một thử nghiệm lâm sàng thực hiện bởi các nhà nghiên cứu từ Feinstein Institutes for Medical Research của Northwell Health ở New York.
Mùa hè đang vẫy gọi với những chuyến du lịch sôi động, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi số ca nhiễm COVID-19 dần tăng trở lại. Một số tiểu bang ở Hoa Kỳ, số người phải vào bệnh viện do COVID-19 cũng đang tăng, đặc biệt là những người cao niên. Theo Cơ Quan Kiểm Soát và Phòng Bịnh (CDC), số người phải vào bệnh viện hàng tuần đã tăng nhẹ kể từ giữa tháng 6, từ khoảng 6,300 ca lên hơn 8,000 ca trong tuần kết thúc vào ngày 22 tháng 7. Kể từ khi kết thúc tình trạng khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng do COVID-19 vào tháng 5, CDC không còn báo cáo về số ca nhiễm COVID-19 trên toàn quốc. Điều này có nghĩa là các sở y tế của tiểu bang không còn phải báo cáo dữ liệu này cho CDC.
Giác mạc (cornea) là một lớp mô cứng, trong suốt bao phủ phía trước mắt. Nó giúp tập trung ánh sáng vào võng mạc (retina). Nếu giác mạc bị tổn thương do bệnh tật hoặc chấn thương, nó có thể gây ảnh hưởng đến thị lực. Trên toàn thế giới, gần 13 triệu người bị mù do các vấn đề về giác mạc.
Các phòng khám ‘lang băm’ hô hào có bán các liệu pháp tế bào gốc (stem cell therapies) mọc lên nhan nhản khắp mọi nơi. Trên thế giới, có hàng ngàn phòng khám, cơ sở tuyên bố có thể chữa được bách bệnh, từ bệnh tự kỷ cho đến bại não. Những nơi có nhiều ‘phòng khám trị liệu tế bào gốc’ nhất là ở Hoa Kỳ, Mexico, Ấn Độ và Trung Quốc. Rất nhiều người đang đi khắp mọi nơi để tiếp cận những phương pháp điều trị này, dẫn đến một hiện tượng được gọi là du lịch tế bào gốc (stem cell tourism).
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.